OncoCare Cancer Centre

Oncocare Logo 2-08
OncoCare

Tìm hiểu về Ung thư

LIỆU PHÁP HORMONE TRONG UNG THƯ VÚ GIAI ĐOẠN CAO VÀ CÁC TÁC NHÂN MỚI GIÚP VƯỢT QUA SỰ KHÁNG LIỆU PHÁP
LIỆU PHÁP HORMONE TRONG UNG THƯ VÚ GIAI ĐOẠN CAO VÀ CÁC TÁC NHÂN MỚI GIÚP VƯỢT QUA SỰ KHÁNG LIỆU PHÁP

Giới thiệu

Đã có rất nhiều kết quả nghiên cứu được công bố liên quan đến việc sử dụng liệu pháp nhắm mục tiêu trong điều trị ung thư. Vậy liệu pháp “nhắm mục tiêu” đầu tiên áp dụng cho ung thư vú là gì? Trên thực tế, phương pháp này có tên gọi là liệu pháp nội tiết hoặc liệu pháp hormone. Sự phát triển của phương pháp điều trị bằng cách sử dụng thuốc nhằm vào thụ thể oestrogen (hoặc estrogen) biểu hiện ung thư vú là một trong những tiến bộ lớn của lĩnh vực nghiên cứu ung thư. Hơn một thế kỷ trước, các nhà khoa học nhận thấy rằng việc tẩy hoặc loại bỏ chức năng nội tiết tố của buồng trứng, tuyến yên hoặc tuyến thượng thận là một cách để điều trị ở một số bệnh nhân ung thư vú giai đoạn cao. Mãi cho đến khoảng 50 năm trước, những thụ thể hormon steroid, được gọi là thụ thể estrogen (ER) và thụ thể progesterone (PR) đã được phát hiện ra và khối u biểu hiện gián tiếp qua các thụ thể này. Biểu hiện ER hay ung thư vú dương tính ER trở thành mục tiêu cho liệu pháp chống estrogen. Sau đó các loại thuốc được phát triển để hỗ trợ cho liệu pháp này. Một số các loại thuốc bao gồm SERMs (Selective Estrogen Receptor Modulators), và chất ức chế aromatase.

Ung thư là một căn bệnh không đồng nhất, có nghĩa là các tế bào ung thư khác nhau có các đặc trưng, biểu hiện gen, sự trao đổi chất, tiềm năng di căn riêng biệt. Điều này được rút ra sau quá trình quan sát tìm hiểu các loại tế bào ung thư của các nhà nghiên cứu. Những khác biệt này tồn tại nhưng đôi khi không thực sự rõ ràng đối với các nhà quan sát. Ví dụ, trên một trang trại gà, các chú gà sẽ trông khá giống nhau nhưng vẫn có sự khác biệt giữa chúng dưới con mắt của người quan sát cẩn thận. Sự khác biệt trong các tế bào khối u có thể xảy ra giữa các khối u (tính không đồng nhất giữa khối u) hoặc trong các khối u (tính không đồng nhất trong khối u). Nhận ra sự khác biệt này mang lại ý nghĩa rất lớn vì nó giúp bác sĩ phân loại các chiến lược điều trị phù hợp. Điều này cũng giải thích tại sao ở những bệnh nhân có khối lượng hoặc số lượng tế bào khối u lớn (đặc biệt là trong môi trường di căn), chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn trong việc loại bỏ tất cả các tế bào khối u.

Trong ung thư vú, dựa trên cấu trúc phân tử, khối u đã được phân loại theo biểu hiện của thụ thể estrogen (ER), thụ thể progesterone (PR) và yếu tố tăng trưởng biểu bì của con người 2 (HER2, còn gọi là HER2 / neu). :

  1. Phân nhóm ung thư vú dương tính hormone (hoặc dương tính nội tiết tố)

ER dương tính, PR dương tính, HER2 âm tính

ER tích cực, PR âm tính, HER2 âm tính

ER âm tính, PR dương tính, HER2 âm tính (không phổ biến)

  1. Phân nhóm ung thư vú dương tính với HER2 (hoặc dương tính với HER 2 neu)

ER âm tính, PR âm tính, HER2 dương tính

ER dương tính, PR dương tính, HER2 dương tính

ER dương tính, PR âm tính, HER2 dương tính

ER âm tính, PR dương tính, HER2 dương tính (không phổ biến)

  1. Phân nhóm ung thư vú âm tính cấp độ ba (TNBC)

ER âm tính, PR âm tính, HER2 âm tính

Điều trị ung thư vú dương tính với ER

Thụ thể oestrogen (hoặc thụ thể estrogen) được biểu hiện trong khoảng 70% tất cả các bệnh ung thư vú và liệu pháp nội tiết tố là trọng tâm điều trị cho những khối u loại này. Có nhiều lựa chọn nội tiết khác nhau có sẵn. Liệu pháp nội tiết tố có thể được sử dụng như là một phần của quá trình điều trị tổng thể cho bệnh ung thư vú, chiến lược tối ưu cụ thể sẽ được xác định bởi bác sĩ chuyên khoa ung thư của bệnh nhân.

Năm Thuốc Cơ chế
1896

1977

1990s

2000s

Cắt bỏ/triệt tiêu buồng trứng

Phẫu thuật (cắt bỏ cả hai buồng trứng còn gọi là phẫu thuật cắt buồng trứng)

Xạ trị

Nội khoa (GnRH đồng vận)

SERMS Tamoxifen

Chất ức chế aromatase

Exemestane (Aromasin)

Letrozole (Femara)

Điều chỉnh giảm thụ thể estrogen (Estrogen receptor downregulators)

Fulvestrant (Faslodex)

Giảm estrogen ở phụ nữ tiền mãn kinh

Ngăn chặn thụ thể estrogen trong mô vú

Ngăn chặn chuyển đổi androstendione và estradiol trong các mô ngoại biên (mỡ, gan, cơ, não)

Suy giảm nhị trùng hóa ER (dimerization), tăng suy thoái ER, và phá vỡ khu trú hạt nhân (nuclear localisation) của ER

Vì xác suất chống lại các liệu pháp hormon có thể xảy ra với tỉ lệ một trên bốn trường hợp, các chiến lược điều trị mới hơn đã được phát triển nhằm vượt qua điều này. Có một số loại thuốc uống như palbociclib, ribociclib hoặc everolimus khi kết hợp với các liệu pháp nội tiết có sẵn đã cải thiện kết cục điều trị.

Cả palbociclib (Ibrance) và ribociclib (Kisqali) đều thuộc về một nhóm các loại thuốc được gọi là chất ức chế CDK4 / 5, có nhiệm vụ ngăn chặn các protein trong tế bào gọi là nhân Cyclin phụ thuộc kinase (CDK), đặc biệt là CDK4 và CDK6. Các loại thuốc này sẽ cản trở sự phân chia tế bào và do đó ngăn chặn sự phát triển của ung thư. Palbociclib (Ibrance) và Ribociclib (Kisqali) đều được chấp thuận để điều trị ung thư vú di căn dương tính với thụ thể hormone ở phụ nữ sau mãn kinh. Việc sử dụng Palbociclib (Ibrance) đã được nghiên cứu kết hợp với các liệu pháp hormon như letrozole (Femara) và fulvestrant (Faslodex), đồng thời Ribociclib (Kisqali) đã được nghiên cứu kết hợp với letrozole (Femara) và những loại thuốc kết hợp mới này có cho thấy kết quả điều trị được cải thiện. Có rất nhiều thử nghiệm đang diễn ra nhằm đánh giá những nhóm thuốc nêu trên trong cả ung thư vú giai đoạn đầu và giai đoạn sau.

 

Tác giả:

Bác sĩ Tan Sing Huang
Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật/MBBS (Singapore)
Thạc sĩ Y Khoa/M.Med (Singapore)
Thành viên Royal College of Physicians/MRCP (Vương quốc Anh)
Chuyên khoa Học viên Y khoa Singapore/FAMS (Ung thư Y khoa)

 

Bác sĩ Peter Ang
Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật/MBBS (Singapore)
Thạc sĩ Y khoa/MMed (Nội khoa)
Thành viên Royal College of Physicians/MRCP (Vương quốc Anh)
Chuyên khoa Học viên Y khoa Singapore/FAMS (Ung thư Y khoa)