CÁC ĐẦU MỐI LÂM SÀNG NGHI NGỜ BỆNH NHÂN BỊ SỐT ÁC TÍNH
Ở những bệnh nhân bị sốt ác tính, sự khởi phát của sốt đôi khi có thể được thể hiện thông qua các biểu hiện lâm sàng và có thể là đầu mối đầu tiên chứng minh bệnh nhân bị ung thư tiềm ẩn. Thường không có mô hình sốt cụ thể nào quan sát thấy rõ ràng ở những bệnh nhân bị sốt ác tính.
Một ngoại lệ là kiểu sốt cổ điển được nhìn thấy trong lymphoma Hodgkin mặc dù không phổ biến, được gọi là sốt Pel-Epstein. Loại sốt này xảy ra liên tục trong vài ngày, sau đó kéo dài trong một giai đoạn tương tự sốt rét. Không giống như sốt gây ra bởi nhiễm trùng, sốt ác tính nói chung không liên quan đến ớn lạnh, rùng mình, nhịp tim nhanh hoặc hạ huyết áp. Ngoài ra, sốt ác tính không thể giảm bớt bằng paracetamol (Panadol).
Trong phần lớn các trường hợp, nhiều khả năng bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng khác cùng với sốt. Ví dụ, triệu chứng B là một bộ ba các loại sốt dai dẳng, đổ mồ hôi ban đêm và giảm cân đột ngột hơn 10% trọng lượng cơ bản trong 6 tháng, thường là biểu hiện của lymphoma. Có một số loại lymphoma như khuếch tán tế bào lympho B lớn, lymphoma Hodgkin, lymphoma tế bào T ngoại vi và lymphoma tế bào T NK. Sự có mặt của bất kỳ triệu chứng sốt B nào biểu hiện rằng diễn biến ung thư có tiên lượng xấu hơn và thường liên quan đến bệnh ngoài hạch. liên quan đến gan, xương… Một cơn đau nhức hoặc đau dai dẳng ở bụng trên bên trái có thể biểu hiện chứng lách to hoặc lách to do bệnh bạch cầu myeloid mãn tính.
Sốt có ho và chứng xuất huyết có thể do viêm phổi sau tắc nghẽn do ung thư phổi (ví dụ ung thư phổi tế bào không nhỏ hoặc ung thư phổi tế bào nhỏ) hoặc hạch bạch huyết trung thất cồng kềnh từ ung thư hạch. Sốt kèm triệu chứng sưng chân đột ngột hoặc khó thở đột ngột có thể là do bệnh huyết khối tĩnh mạch (DVT) ở bệnh nhân ung thư. Vài ví dụ này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc theo dõi lịch sử bệnh lý chi tiết và khám sức khỏe để đưa ra chẩn đoán chính xác.
Tại Trung tâm Ung thư OncoCare, chúng tôi ghi nhận một số trường hợp bệnh nhân có biểu hiện sốt ác tính. Việc chẩn đoán sớm là rất quan trọng, ví dụ, bệnh nhân nghi ngờ ung thư hạch và hạch bạch huyết ở ngực và bụng có thể xác định rõ ràng ngay lập tức nếu được sắp xếp chụp CT hoặc chụp PET CT kịp thời.
KIỂM SOÁT SỐT ÁC TÍNH
Một khi chẩn đoán ung thư được thực hiện, việc điều trị dứt khoát sốt ác tính là để giải quyết ung thư cơ bản, hoặc bằng cách điều trị hóa trị hoặc phẫu thuật cắt bỏ khối u. Tuy nhiên, đôi khi nguyên nhân gây sốt có thể vẫn còn khó nắm bắt dù đã được đánh giá. Đối với nhóm bệnh nhân này, đôi khi chiến lược sử dụng thuốc kháng viêm không steroid (NSAID) được áp dụng.
Cách tiếp cận này đã được xác nhận bởi một số thử nghiệm lâm sàng và chứng minh được hiệu quả của các NSAID như naproxen và ibuprofen trong việc ức chế sốt ác tính. Do đó, điều trị theo kinh nghiệm với NSAID không chỉ hữu ích trong việc làm giảm các triệu chứng, nó còn có thể hỗ trợ trong việc xác định bệnh nhân có thể bị sốt ác tính.
PHẦN KẾT LUẬN
Sốt ác tính là một cân nhắc quan trọng cần được xem xét ở những bệnh nhân sốt không rõ nguồn gốc. Các nguyên nhân khác như nhiễm trùng phải được loại trừ kỹ lưỡng trước khi chẩn đoán. Do đó, việc kiểm tra lịch sử và khám sức khỏe toàn diện là vô cùng quan trọng trong việc chẩn đoán chính xác. Một nguyên tắc hiệu quả nên được áp dụng là xem xét chẩn đoán sốt ác tính ở những bệnh nhân có bệnh sốt kéo dài và không có bằng chứng về nhiễm trùng cơ bản. Kiểm soát sốt ác tính sẽ giúp giải quyết ung thư cơ bản. Tuy nhiên, việc sử dụng NSAID trong sốt ác tính có thể cung cấp cả triệu chứng giảm đau cũng như tiện ích chẩn đoán.
Tác giả:
Bác sĩ Kevin Tay
Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật/MBBS (Singapore)
Hội đồng Y học Nội khoa Hoa Kỳ/ABIM Nội khoa
Hội đồng Y học Nội khoa Hoa Kỳ/ABIM Ung thư Y khoa
Chuyên khoa Học viên Y khoa Singapore/FAMS (Ung thư Y khoa)