Giới thiệu
Ung thư tuyến tụy mặc dù là một loại ung thư không phổ biến, nhưng nó xếp thứ 5 trong danh sách các nguyên nhân gây tử vong thường gặp do ung thư ở Singapore và là một trong 10 bệnh ung thư chết người hàng đầu trên toàn thế giới. Ung thư tuyến tụy bao gồm nhiều phân nhóm khác nhau, trong đó phần lớn các phân nhóm bệnh đều ảnh hưởng đến khu vực tuyến tụy sản sinh ra enzim, có tên gọi là ung thư biểu mô tuyến tụy. Tuyến tụy cũng có các tế bào tạo hoóc-môn (ví dụ các tế bào islet sản xuất insulin). Ung thư có thể phát sinh trong các tế bào này và được gọi là các khối u thần kinh nội tiết (NET). Bài viết này sẽ đề cập đến loại ung thư biểu mô tuyến tụy thường gặp hơn.
Các yếu tố nguy cơ
Thông thường, rất khó để nhận định chính xác các yếu tố nguy cơ dẫn đến ung thư tuyến tụy, tuy nhiên có những yếu tố khiến tỉ lệ phát triển ung thư tuyến tụy tăng cao như sau:
- Hút thuốc
- Bệnh đái tháo đường
- Bệnh béo phì
- Tiêu thụ nhiều đồ uống có đường
- Viêm tụy mãn tính hoặc viêm tuyến tụy
Tiền sử bệnh lý của gia đình cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến xác suất phát triển ung thư tuyến tụy. Nếu gia đình có người thân đã từng mắc phải các bệnh như ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư đại tràng, ung thư dạ dày, thì nguy cơ ung thư tuyến tụy thông qua các gen di truyền là rất cao.
Dấu hiệu và triệu chứng
Nhiều bệnh nhân ung thư tuyến tụy không có bất kỳ dấu hiệu bệnh nào, và các triệu chứng thường xuất hiện ở giai đoạn nặng.
Các dấu hiệu và triệu chứng thường gặp đối với ung thư tuyến tụy là:
- Bệnh vàng da hoặc vàng mắt
- Đau lưng
- Đau bụng
- Giảm cân bất thường
- Tiêu chảy thường xuyên
Điều tra chẩn đoán
Chẩn đoán ung thư tuyến tụy được triển khai bước đầu tiên thông qua chẩn đoán hình ảnh chụp CT hoặc MRI. Bước tiếp theo của quy trình chính là sinh thiết khối u được thực hiện bởi một chuyên gia ung thư tuyến tụy hoặc nhóm điều trị ung thư. Tại Singapore, bước nội soi có thể được tiến hành bằng kỹ thuật nội soi siêu âm can thiệp (EUS) mà không cần phẫu thuật cho hầu hết bệnh nhân. Các phương pháp khác bao gồm sinh thiết bằng kim tiêm qua da, nếu tế bào ung thư đã lan sang các cơ quan khác như gan. Nếu khối u gây vàng da do cản trở dòng chảy của mật, một ống đỡ động mạch, cũng có thể được đặt để làm giảm tắc nghẽn.
Việc sử dụng chất đánh dấu khối u tăng trưởng, thường là chất CA 19-9, có thể hỗ trợ trong chẩn đoán và điều trị theo dõi.
Điều trị
Ung thư tuyến tụy giai đoạn sớm có thể được chữa khỏi bằng phẫu thuật. Yêu cầu chuyên môn của nhóm chuyên gia điều trị cho các bệnh nhân ung thư tuyến tụy đòi hỏi rất cao, bởi lẽ họ phải chịu trách nhiệm trong việc kiểm soát ung thư. Nhóm các chuyên gia này sẽ xem xét các hình ảnh được chụp chiếu, thường là hình ảnh chụp MRI, trao đổi ý kiến với các bác sĩ phẫu thuật gan, chuyên gia X-quang, bác sĩ ung bướu y khoa có kinh nghiệm để lên kế hoạch điều trị tối ưu.
Nhìn chung, chỉ có 15% đến 20% tổng số bệnh nhân có đủ khả năng trải qua phẫu thuật khi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tụy, do đặc trưng phát triển âm thầm nhưng dữ dội của căn bệnh ung thư này. Tuy nhiên, nếu chỉ điều trị bằng phẫu thuật, phần lớn bệnh nhân bị tái phát bệnh. Liệu pháp hóa trị được áp dụng trước hoặc sau phẫu thuật đã được chứng minh là làm giảm nguy cơ tái phát và làm tăng nguy cơ chữa bệnh.
Ung thư tuyến tụy giai đoạn cao thường được điều trị bằng hóa trị liệu giảm nhẹ. Nhờ các tác nhân hóa trị mới đã được phát minh và kiểm nghiệm cùng với lộ trình điều trị thích hợp, tỷ lệ sống trung bình của bệnh nhân ung thư tuyến tụy giai đoạn cao đã tăng gấp đôi trong thập kỷ vừa qua. Liệu pháp hóa trị cũng đã được chứng minh làm giảm nhẹ các triệu chứng bệnh.
Các loại thuốc có thể được sử dụng bao gồm 5-fluorouracil (5-FU), Oxaliplatin, Leucovorin (axit folinic), Irinotecan, Gemcitabin, nab-Paclitaxel (Abraxane), Cisplatin, TS-One và Capecitabine (Xeloda).
Tại Trung tâm Ung thư OncoCare, Singapore, chúng tôi hiểu rằng việc sắp xếp cho các cuộc kiểm tra và điều trị có vai trò rất quan trọng nhưng tốn khá nhiều thời gian. Các bệnh nhân trong nước và quốc tế khi đến với trung tâm của chúng tôi có thể kỳ vọng quy trình chụp quét và điều tra chẩn đoán sẽ hoàn thành trong vòng 1 đến 2 ngày làm việc.
Tác giả:
Bác sĩ Thomas Soh
Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật/MBBS (Singapore)
Thành viên Royal College of Physicians/MRCP (Vương quốc Anh)