OncoCare Cancer Centre

Oncocare Logo 2-08

CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÚ

Các cách điều trị ung thư vú ở Singapore là gì?

Điều trị Ung thư vú có thể bao gồm nhiều phương pháp như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, liệu pháp nội tiết, liệu pháp nhắm trúng đích hoặc liệu pháp miễn dịch. Do đó điều trị ung thư vú là sự phối hợp của nhiều phương pháp yêu cầu các bác sĩ có chuyên môn khác nhau.

OncoCare Breast Cancer Treatment Singapore

Điều trị ung thư vú: Hóa trị

Hóa trị là sử dụng các thuốc để giết các tế bào ung thư ác tính. Các thuốc có mục tiêu đến các tổn thương tế bào u hơn là các tế bào bình thường. Gót chân Achilles của các tế bào ung thư chính là chúng cần nhiều cơ chế để phát triển nhanh hơn, sửa chữa chúng, sử dụng các con đường cung cấp dinh dưỡng nhất định, tăng lưu lượng máu đến khối u, giảm các tín hiệu chết tế bào và trốn tránh hệ miễn dịch của cơ thể. Hóa trị và các loại liệu pháp kháng ung thư khác dựa vào thuốc và các cơ chế để tấn công và giết các tế bào ung thư.
Không phải tất cả các bệnh nhân ung thư đều cần hóa trị. Hóa trị nếu cần thì có thể được sử dụng ở các giai đoạn điều trị khác nhau.

(A) Hóa trị bổ trợ (sau khi phẫu thuật không có bằng chứng của bệnh di căn đến các vị trí khác): Hóa trị bổ trợ để giảm nguy cơ rủi ro tái phát và tăng khả năng sống sót của người bệnh bằng cách tiêu diệt bất kì các tế bào ung thư mà có thể vẫn còn tồn tại nhưng không thể phát hiện được qua xét nghiệm máu hoặc phóng xạ (xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh).

(B) Hóa trị bổ trợ trước phẫu thuật (được sử dụng trước khi phẫu thuật xác định): Hóa trị bổ trợ trước phẫu thuật có một số lợi ích, đặc biệt đối với các khối u lớn hơn. Hóa trị có khả năng giảm giai đoạn phát triển của các bệnh ung thư, làm cho các khối u nhỏ hơn, do đó có cơ hội lựa chọn bảo toàn vú cho các bệnh nhân thích hợp. Bên cạnh đó, có thể đánh giá phản ứng của u với hóa trị (điều trị bằng thuốc) từ đó cho phép một số điều chỉnh phương pháp đối với một số nhóm các bệnh nhân ung thư vú. Các bệnh nhân ung thư vú tiến triển tại chỗ lớn có ảnh hưởng đến da, thành ngực, hoặc với các nốt lympho lớn nên được hóa trị trước để tối đa cơ hội loại bỏ u khi phẫu thuật. Đôi khi, một liệu trình hóa trị xa hơn có thể được đề xuất sau khi phẫu thuật với một số loại ung thư vú nhất định và bác sĩ của bạn sẽ trao đổi với bạn về điều đó.

(C) Hóa trị cho giai đoạn di căn: Được sử dụng như là chiến lược điều trị ưu tiên trong một số trường hợp nhất định khi ung thư đã lan truyền (di căn) đến các cơ quan và các vị trí khác xa hơn (giai đoạn bệnh IV).
Điển hình, các phác đồ hóa trị có thể thực hiện khoảng 3 đến 6 tháng, và được sử dụng trong ‘các chu kỳ’. Sử dụng thuốc với thời gian nghỉ từ 1 đến 3 tuần cho các tế bào của người bệnh hồi phục trước khi sử dụng thuốc tiếp. Một số thuốc điều trị ung thư gây độc tế bào được truyền trong thời gian ngắn, một số thuốc có thể trong vài giờ. Gần như tất cả các điều trị thường được thực hiện ở phòng khám bệnh của chúng tôi trong môi trường ngoại trú thoải mái.
Các tác dụng phụ không mong muốn của hóa trị có thể có tùy thuộc vào loại thuốc và phác đồ điều trị. Nhưng, nhìn chung các tác dụng phụ có thể được quản lý tốt. Chúng tôi có máy làm mát da đầu có thể giúp giảm nguy cơ rụng tóc nhưng chỉ có hiệu quả với một số thuốc hóa trị nhất định. Vui lòng thảo luận vấn đề này với bác sĩ của bạn để xem bạn có phù hợp để sử dụng nó không.
Đôi khi trong các bệnh ung thư giai đoạn sớm, sự cần thiết của hóa trị có thể không rõ ràng lắm. Trong các trường hợp đó, có một số xét nghiệm bộ gen được thực hiện trên mô u của bạn từ đó có thể giúp đánh giá nguy cơ tái phát và bạn có thể đưa ra được quyết định về hóa trị. Bác sĩ điều trị của bạn có thể giúp bạn hiểu khi nào bạn cần các xét nghiệm này.

OncoCare Breast Cancer Treatment: Chemotherapy

Liệu pháp Hormon (điều trị nội tiết)

Liệu pháp hormon chống ung thư, được gọi là liệu pháp nội tiết, sử dụng các thuốc đến đích là các tín hiệu estrogen (oestrogen). Các tế bào ung thư vú nhạy cảm với hormon cần tín hiệu đó để điều khiển quá trình nhân sản sinh và phát triển của chúng.
Các bệnh ung thư vú mà có con đường tín hiệu này chủ yếu được xác định trong nhuộm màu tế bào u (nhuộm hóa mô miễn dịch) như thụ thể estrogen dương tính (estrogen receptor positive (ER positive)) và / hoặc thụ thể progesterone dương tính (progesterone receptor positive (PR positive)). Xét nghiệm này dùng kháng thể, nhuộm màu các tế bào u. Mức độ và tỷ lệ phần trăm các tế bào được nhuộm có thể được phản ánh trong báo cáo bệnh lý (kết quả giải phẫu bệnh).
Có nhiều nghiên cứu liên quan đến các bệnh nhân ung thư cho thấy cải thiện sự sống sót đối với nữ giới có ung thư vú nhạy cảm với hormon mà uống các thuốc nội tiết trong một khoảng thời gian. Các thuốc uống phổ biến được chỉ định bao gồm tamoxifen cho nữ giới trước và sau thời kỳ mãn kinh và các chất ức chế aromatase như là anastrozole (Arimidex), exemestane (Aromasin), và letrozole (Femara) cho nữ giới sau mãn kinh. Các thuốc này được dùng trong các giai đoạn ung thư vú sớm và tiến triển muộn hơn. Có liệu pháp hormon khác được dùng trong ung thư tiến triển muộn như fulvestrant (Faslodex) dưới dạng các thuốc tiêm bắp. Một số loại liệu pháp hormon hoạt động bằng cách ngăn chặn buồng trứng tạo các hormon, thông qua phẫu thuật, xạ trị hoặc thuốc. Nhìn chung, các tác dụng phụ của các thuốc liệu pháp hormon thay đổi phụ thuộc vào loại thuốc, nhưng thường được chấp nhận tốt và quản lý được.
Đối với điều trị ung thư vú tiến triển, nhóm các thuốc mới nhất được biết đến là các chất ức chế CDK4/6 (palbociclib (Ibrance) ribociclib (Kisqali) và abemaciclib (Verzenio)) có mục tiêu là các enzym CDK4 và CDK 6 có vai trò quan trọng trong phân chia tế bào. Các thuốc uống này được dùng kết hợp với liệu pháp hormon được mô tả ở trên (các chất ức chế aromatase, tamoxifen, fulvestrant). Các thuốc này có các tác dụng phụ nhưng được chấp nhận và quản lý được. Bác sĩ điều trị của bạn cung cấp cho bạn các trao đổi chuyên sâu hơn về các tác dụng phụ đó nên bạn có thể hiểu về chúng tốt hơn

Các điều trị trúng đích

Sự phát triển tế bào và trao đổi chất cần kết hợp các con đường tín hiệu (truyền tin). Các tế bào ung thư đôi khi có thể chiếm đoạt các tín hiệu này (con đường truyền tin) để đạt được lợi ích qua các tế bào bình thường, từ đó sản sinh tế bào u.
Một trong các con đường đích được thiết lập cho ung thư vú là con đường tín hiệu HER2 (được biết đến là erbB2). Khoảng 20% đến 25% các tế bào ung thư vú khuếch đại gen HER2 trong tế bào ung thư từ đó dư thừa quá mức các protein tăng cường phát triển HER2 được thể hiện trên chúng. Đó giống như tăng hoạt động cơ chế tăng trưởng tế bào. Các u này được biết đến là các ung thư vú dương tính với HER2. Các u được gọi là hành xử ác tính hơn và có khuynh hướng lan rộng đến các nốt lympho và các cơ quan khác sớm hơn, bao gồm não người.
Trastuzumab (Herceptin) là kháng thể đơn dòng trực tiếp chống protein HER2, được chấp nhận vào năm 1998 để ngăn chặn con đường tín hiệu này, thường được tiêm tĩnh mạch nhưng giờ có một cách thức tiêm dưới da mà giúp quản lý tốt hơn. Khi Trastuzumab (Herceptin) được dùng với hóa trị thì có kết quả: tỷ lệ đáp ứng u cao hơn và tỷ lệ điều trị thành công cao hơn trong trường hợp giai đoạn sớm và giai đoạn tiến triển.
Sau đó các thuốc đích HER2 khác được chấp nhận, gồm có ado-trastuzumab (T-DM1 hoặc Kadcyla) và pertuzumab (Perjeta) được tiêm tĩnh mạch và neratinib (Nerlynx) và lapatinib (Tykerb) được uống. Các thuốc này được dùng trong các tình huống khác nhau và các giai đoạn điều trị ung thư vú của bạn và bác sĩ điều trị bạn có thể đánh giá thuốc nào là phù hợp nhất cho bạn.
Các tác dụng phụ của các thuốc kháng HER2 thường ít nhưng một số có thể nặng hơn. Ví dụ, trastuzumab, pertuzumab hoặc ado-trastuzumab có thể gây yếu tim (giảm chức năng của tim) hoặc suy tim và theo dõi chức năng tim mạch rất quan trọng trong quá trình điều trị bệnh.
Các chất điều trị đích khác chống các con đường khác được phát triển để sử dụng trong ung thư vú tiến xa. Chúng bao gồm các chất sau:
(1) Các chất ức chế PARP (olaparib[Lynparza], talazoparib[Talzenna]): các thuốc uống được chấp nhận sử dụng trong các bệnh ung thư vú tiến triển mà HER2 âm tính. Những bệnh nhân này có đột biến gen BRCA dòng mầm (một đột biến di truyền trong gen BRCA sửa chữa DNA).
(2) Chất ức chế PIK3CA (alpelisib[Piqray]): là thuốc uống được sử dụng kết hợp với thuốc liệu pháp hormon như fulvestrant (Faslodex) trong các bệnh ung thư vú tiến triển mang đột biến PIK3CA HER2 âm tính, thụ thể hormon dương tính. Con đường PI3K/AKT/mTOR là một con đường tín hiệu cho sự phát triển tế bào và trao đổi chất. Ức chế con đường này có thể ngăn chặn u. Khoảng 30-40% các bệnh ung thư vú được tìm thấy có đột biến gen PIK3CA.
(3) Các chất ức chế mTOR (everolimus [Affinitor]): là thuốc uống được sử dụng kết hợp với exemestane (Aromasin) trong các bệnh ung thư vú tiến triển có HER2 âm tính thụ thể hormon dương tính. Bằng cách ức chế protein mTOR, từ đó ức chế hoặc làm chậm sản sinh tế bào. Điều đó có thể giới hạn sự phát triển của các mạch máu mới tạo thành các khối u, tước đi chất dinh dưỡng của nó.
Tất cả các điều trị đích này có các tác dụng phụ khác nhau và bác sĩ của bạn có thể giúp bạn quyết định liệu pháp nào thích hợp nhất với điều kiện tình trạng bệnh của bạn.
Các thuốc liệu pháp miễn dịch kiểm soát hệ miễn dịch của cơ thể để nhận biết và giết các tế bào ung thư. Nhóm các thuốc này khi sử dụng kết hợp với hóa trị được thấy hiệu quả nhất trong nhóm các bệnh nhân với ung thư vú bộ ba âm tính (các thụ thể estrogen và progesterone âm tính, HER2 âm tính).

Xạ trị

Xạ trị là sử dụng các tia X năng lượng cao để điều trị ung thư vú. Xạ trị sau phẫu thuật được đề xuất sau khi chỉ cắt bỏ khối u ung thư ở vú (phẫu thuật bảo tồn tuyến vú) hoặc trong một số trường hợp nhất định sau cắt bỏ toàn bộ tuyến vú khi mà nguy cơ tái phát cao tại chỗ tại vùng (như là có các u lớn hoặc bệnh nốt lympho nặng – di căn hạch). Xạ trị điển hình được đề xuất trong một khoảng thời gian vài tuần và thông qua kế hoạch chi tiết về vùng xạ trị, tránh các cơ quan chính quan trọng càng xa càng tốt.
Xạ trị là một phương thức được sử dụng trong ung thư tiến triển để điều trị trong các trường hợp như đau xương hoặc nếu có chèn ép dây thần kinh trong tủy sống. Di căn não từ ung thư vú thường cần xạ trị. Xạ trị tập trung vào các vị trí u được lựa chọn, được gọi là xạ trị định vị lập thể, có thể được sử dụng trong một số tình huống để giảm tối đa các tác dụng phụ trong điều trị.

OncoCare Breast Cancer Treatment: Radiation Therapy

Operation Hours
8.30am – 5.30pm

Email Address
enquiries@oncocare.sg

Telephone Number
6733 7890

Các bác sĩ ung thư ở OncoCare với chuyên môn lâm sàng
về các bệnh ung thư vú

Phát hiện ung thư sớm là cơ sở để phục hồi nhanh hơn. Bạn nên tìm kiếm các bác sĩ có chuyên môn về ung thư và đặc biệt về ung thư vú để tư vấn cho bạn hoặc người thân của bạn về cách điều trị ung thư phù hợp nhất với tình trạng của bạn. Các chuyên gia ung thư có thể chẩn đoán giai đoạn ung thư vú của bạn, khuyến nghị về phương thức điều trị tốt nhất và các tác dụng phụ có thể có, và giúp bạn ở mỗi giai đoạn trong quá trình phục hồi của bạn.
Khi lựa chọn đúng các bác sĩ có chuyên môn về ung thư vú thì bạn phải xem xét kinh nghiệm của bác sĩ đó về ung thư vú, có kiến thức mới nhất và tiên tiến nhất (bao gồm các thử nghiệm lâm sàng) và có khả năng đề nghị các chế độ điều trị thích hợp nhất với tình trạng cụ thể của bạn.
Nhóm các bác sĩ ung thư của OncoCare có nhiều năm kinh nghiệm chuyên môn về ung thư vú. Các chuyên gia của chúng tôi được đào tạo ở các viện nghiên cứu ung thư nổi tiếng nhất trên thế giới, bao gồm Viện Ung thư Dana Farber (Dana Farber Cancer Institute) (thuộc Trường Y Harvard – Harvard Medical School) và Viện Y John Hopkins (John Hopkins Medical Institute).

Dr Wong Nan Soon (Bác sĩ Wong Nan Soon)

Senior Consultant, Medical Oncologist
Chuyên gia tư vấn cao cấp, Bác sĩ Y khoa Ung thư
MBBS (Singapore) – M.Med (Singapore) – MRCP (United Kingdom) – FAMS (Medical Oncology) – MHsc (Duke, USA)
MBBS (Singapore) – M.Med (Singapore) – MRCP (Vương quốc Anh) – FAMS (Ung thư y tế) – MHsc (Duke, USA)
Bác sĩ Wong Nan Soon có hơn 15 năm kinh nghiệm trong chẩn đoán và quản lý nhiều bệnh ung thư. Bác sĩ Soon có chuyên môn về các bệnh ung thư vú và các bệnh ung thư đường tiêu hóa, như ung thư đại tràng, ung thư trực tràng, ung thư hậu môn, ung thư đường mật, ung thư tụy, ung thư gan, u mô đệm đường tiêu hóa (GIST), và u thần kinh nội tiết. Bên cạnh đó, Bác sĩ Soon có kinh nghiệm điều trị các bệnh nhân bị ung thư phổi, ung thư thận, ung thư tử cung, ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng.
Năm 1994, Bác sĩ Soon tốt nghiệp Y khoa, Trường Đại học Quốc gia Singapore (National University of Singapore) và có Bằng Thạc sĩ Nội Khoa (Internal Medicine) và là thành viên của Đại học Y Khoa Hoàng gia (Royal College of Physicians) ở Vương quốc Anh. Vào năm 2003, Bác sĩ Soon được đào tạo chuyên sâu hơn về ung thư. Sau khi tốt nghiệp, Bác sĩ Soon theo học Nghiên cứu sinh trong vòng 1 năm chuyên ngành y về ung thư vú ở Canada, nơi Bác sĩ Soon được đào tạo bởi Giáo sư Kathleen Pritchard, Bác sĩ Chuyên khoa Ung thư vú nổi tiếng thế giới.
Hồ sơ Y của Bác sĩ Wong Nan Soon
Giải thưởng NOVARTIS dành cho Điều tra viên trẻ về Ung thư Canada năm 2005
Giải thưởng Poster tuyệt nhất trong Hội nghị thường niên của Hiệp Hội Ung thư Canada năm 2005
Chủ tịch, Ủy ban Quỹ Điều trị Y tế, Hiệp hội Ung thư Singapore 2007
Giảng viên lâm sàng, Trường Y Yong Loo Lin, Đại học Quốc gia Singapore từ 2006-2011
Phó Giáo sư phụ trách Khoa Khoa học Lâm sàng, Đại học Quốc gia Singapore (Duke-National University of Singapore), 2011-2013
Chuyên gia tư vấn cao cấp, Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ em KK, Singapore từ 2010-2011
Chuyên gia tư vấn cao cấp, Khoa Ung thư, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore 2009-2011
Tham gia Hội chẩn, Khoa Ung thư, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore 2012-2014
Thành viên Ủy ban Đào tạo Chuyên khoa (Chuyên ngành Ung thư), Bộ Y tế từ năm 2009 đến 2012
Giảng viên được mời Trường Khoa học Y Nanyang (Nanyang Polytechnic School of Health Sciences)
Giám đốc Giáo dục Bệnh nhân và Cộng đồng, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore 2008-2011
Phó Giám đốc Phòng Tiếp cận Cộng đồng và Từ thiện, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore
Phó Chủ tịch, Hiệp hội Ung thư Singapore 2011-2012
Thành viên Hội đồng Quản trị, Nhóm các Bác sĩ Ung thư Y tế của Singapore 2009-2012
Thư ký, Nhóm các Bác sĩ Ung thư Y tế, Trường Y, Học viện Y khoa, Singapore 2007-2008
Thành viên, Ủy ban Chỉ đạo Thử nghiệm Lâm sàng, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore, 2008-2011
Thành viên Hiệp hội Ung thư Singapore
Thành viên Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ

Dr Tan Sing Huang (Bác sĩ Tan Sing Huang)

Senior Consultant, Medical Oncologist
Chuyên gia tư vấn cao cấp, Bác sĩ Y khoa Ung thư
MBBS (Singapore) – M.Med (Singapore) – MRCP (United Kingdom) – FAMS (Medical Oncology)
Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật/MBBS (Singapore) – Thạc sĩ Y khoa/MMed (Singapore) – Thành viên Royal College of Physicians/MRCP (Vương quốc Anh) – Chuyên khoa Học viện Y khoa Singapore/FAMS (Ung thư Y khoa)
Bác sĩ Tan Sing Huang là Bác sĩ Y khoa Ung thư, Chuyên gia tư vấn cao cấp có hơn 16 năm kinh nghiệm trong quản lý rất nhiều bệnh ung thư khác nhau. Trước khi ở Trung tâm Ung thư OncoCare thì Bác sĩ Huang là Chuyên gia tư vấn cao cấp của Khoa Ung thư – Huyết học, Viện Nghiên cứu Ung thư Đại học Quốc gia Singapore. Bác sĩ Huang là Trợ lý Giáo sư ở Trường Y Yong Loo Lin (Yong Loo Lin School of Medicine), Đại học Quốc gia Singapore (National University of Singapore).
Trong suốt quá trình làm việc ở NCIS thì Bác sĩ Huang có chăm sóc cho nhiều bệnh nhân bị ung thư, bao gồm các bệnh ung thư vú, ung thư phụ khoa, ung thư phổi và ung thư đường tiêu hóa (đại tràng, trực tràng, tuyến tụy, gan, dạ dày) nhưng mối quan tâm chính của Bác sĩ Huang là các bệnh ung thư ở nữ giới. Từ các kết quả nghiên cứu lâm sàng của Bác sĩ Huang ở NUH thì Bác sĩ Huang được trao Giải thưởng Sunny Side-Up và Sunny Side-Up WOW dựa trên phản hồi của nhiều bệnh nhân.
Bác sĩ Huang điều hành Bộ phận Giáo dục Cư trú Cao cấp ở NCIS với vai trò Giám đốc Chương trình từ năm 2012 đến năm 2016, Đồng Chủ tịch Ủy ban Năng lực Lâm sàng của NCIS và là Thành viên Hội đồng Tuyển chọn Thực tập sinh Y khoa Ung thư Quốc gia. Đồng thời, Bác sĩ Huang tham gia với tư cách giám khảo cho các kỳ thi y khoa tốt nghiệp đại học. Vì các đóng góp của Bác sĩ Huang cho giáo dục đào tạo, Bác sĩ Huang được trao Giải thưởng Giảng dạy xuất sắc NUH vào năm 2014.
Bác sĩ Huang là Phó Chủ tịch của Hiệp hội Ung thư Singapore từ năm 2013 đến năm 2018.
Bác sĩ Huang là thành viên hoạt động tích cực và trong thời gian dài của Hội đồng Thành viên và Phó Chủ tịch Hội đồng Đánh giá Đạo đức theo lĩnh vực đặc trưng Nhóm Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia (National Healthcare Group Domain-Specific Ethics Review Board) từ năm 2020, đánh giá các quy trình thử nghiệm lâm sàng về các bệnh ung thư cho các bệnh viện.
Bác sĩ Huang là Điều tra viên chính về một số nghiên cứu của các Trung tâm, điều tra nghiên cứu các loại thuốc điều trị mới cho các bệnh ung thư vú HER2 dương tính và đồng thời là Điều tra viên các thử nghiệm lâm sàng của một số Trung tâm về các bệnh ung thư phổi, ung thư đại trực tràng và ung thư vú.
Bác sĩ Huang có mối quan tâm đối với nghiên cứu tịnh tiến (nghiên cứu chuyển giao công nghệ) do đó mà Bác sĩ có thời gian trong Nhóm Nghiên cứu RUNX ở Singapore theo Giải thưởng Học bổng Nghiên cứu Y học Totalisator Nghiên cứu Y học Quốc gia – Singapore (NMRC). Sau đó, Bác sĩ Huang đến Trung tâm Ung thư Toàn diện Sidney Kimmel Johns Hopkins (Johns Hopkins Sidney Kimmel Comprehensive Cancer Centre) ở Baltimore năm 2006 đến 2007, ở đó Bác sĩ Huang tiến hành nghiên cứu di truyền học, gen biểu sinh (di truyền ngoại gen) và thu được nhiều kinh nghiệm lâm sàng từ các tài liệu với Phòng Ung thư vú của Viện Y học Johns Hopkins.
Bác sĩ Huang được trao Giải thưởng Chương trình Tài trợ Khoa học – Điều tra – Nghiên cứu RISE (Research-Investigator-Scientist Enabler (RISE)) từ năm 2008 đến 2010, và Giải thưởng cho nhà nghiên cứu trẻ (Junior Investigator Protected Time Award) năm 2011. Đạt được Giải thưởng Merit Award ở Hội nghị Quốc tế lần thứ 10 của Hiệp hội Ung thư Lâm sàng châu Á ở Seoul về các biến đổi đột biến gen sinh ung thư trước và sau hóa trị đối với các bệnh ung thư vú. Từ năm 2012 đến 2014, Bác sĩ Huang được trao Giải thưởng Hỗ trợ Tiền Nghiên cứu Lâm sàng Hội đồng Nghiên cứu Y học Quốc gia (National Medical Research Council Clinician Investigator Salary Support Program – CISSP). Bác sĩ Huang có được một số khoản tài trợ độc lập từ năm 2008 nghiên cứu các mô hình methyl hóa, dữ liệu về đột biến gen sinh ung thư thông lượng cao và các hiệu ứng của hóa trị đối với các bệnh nhân bị ung thư.
Bác sĩ Huang có đóng góp vào các Chương sách về hóa trị điều trị ung thư vú di căn trong các sách quốc tế về các bệnh của vú. Bên cạnh đó, Bác sĩ Huang viết các Bài báo khoa học được công bố ở các tạp chí trong nước và quốc tế trong đó có Nghiên cứu Ung thư Lâm sàng và Lịch sử về Ung thư học (Clinical Cancer Research and Annals of Oncology).
Bác sĩ Huang là khách mời thuyết trình và nói chuyện ở trong nước và nước ngoài gồm có Trung Quốc, Việt Nam và Brunei. Bác sĩ chủ trì các Hội nghị và khách mời ở các Hội nghị trong nước và nước ngoài. Bác sĩ Huang thường nói tiếng Anh, tiếng Trung Mandarin và Hokkien và biết một ít tiếng Malay và Bahasa. Bác sĩ Huang chăm sóc cho nhiều bệnh nhân từ nhiều vùng khác nhau bao gồm Indonesia, Việt Nam, Myanmar, Trung Quốc, Bangladesh, Sri Lanka, Ấn Độ (India) và nước Nga (Russia).
Hồ sơ Y của Bác sĩ Tan Sing Huang
Chuyên gia cao cấp ở Viện Ung thư Đại học Quốc gia (NCIS) trước khi tham gia vào Trung tâm Ung thư OncoCare
Trợ lý Giáo sư, Trường Y Yong Loo Lin, Đại học Quốc gia Singapore, trước khi vào Trung tâm Ung thư OncoCare
Giám đốc Chương trình, Phòng Giáo dục Cư trú cao cấp, Viện Ung thư Đại học Quốc gia từ 2012-2016
Phó Chủ tich Hội đồng Nghiên cứu Đặc trưng vùng B1 Nhóm Chăm sóc sức khỏe Quốc gia từ 2020 và thành viên Hội đồng từ 2011
Phó Chủ tịch Hiệp hội Ung thư Singapore 2013-2018
Giải thưởng Merit Award thuyết trình ở Hội nghị Quốc tế lần thứ 10 của Hiệp hội Ung thư Lâm sàng châu Á (Seoul, Hàn Quốc) 2012
Giải thưởng Chương trình Tài trợ RISE (Research-Investigator-Scientist Enabler) 2008
Giải thưởng Học bổng Nghiên cứu Y Totalisator Singapore – Nghiên cứu Y học Quốc gia 2003-2004
Giải thưởng Sunny Side-up và Sunny Side-up WOW trong chăm sóc bệnh nhân về lâm sàng, Bệnh viện Đại học Quốc gia
Thành viên Ủy ban Hội nghị Chuyên đề về Vú 2016 Singapore
Chủ tịch Hội nghị Best of ASCO Singapore 2015
Giải thưởng Giảng dạy Xuất sắc NUH 2014
Thành viên Mạng lưới Ung thư Singapore (SCaN) Nhóm hướng dẫn Ung thư vú và chỉ đạo các vấn đề liên quan đến sử dụng bisphosphonate bổ trợ
Đào tạo Sau đại học ở Viện Y Johns Hopkins, Baltimore 2006-2007
Thành viên Hiệp hội Ung thư Singapore
Thành viên Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ (American Society of Clinical Oncology (ASCO))

Dr Peter Ang (Bác sĩ Peter Ang)

Senior Consultant, Medical Oncologist
Chuyên gia tư vấn cao cấp, Bác sĩ Y khoa Ung thư
MBBS (Singapore) – M.Med (Singapore) – MRCP (United Kingdom) – FAMS (Medical Oncology)
Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật/MBBS (Singapore) – Thạc sĩ Y khoa/MMed (Singapore) – Thành viên Royal College of Physicians/MRCP (Vương quốc Anh) – Chuyên khoa Học viện Y khoa Singapore/FAMS (Ung thư Y khoa)
Bác sĩ Peter Ang tốt nghiệp Đại học Quốc gia Singapore năm 1991 và sau đó học Thạc sĩ Y khoa ở Vương quốc Anh năm 1997. Năm 2000, Bác sĩ Ang có được Học bổng Chương trình Phát triển Nguồn Nhân lực của Bộ Y tế (HMDP) để theo đuổi Chương trình đào tạo ở Viện Ung thư Dana Farber, là nơi mà Bác sĩ Ang học tập và nghiên cứu về Ung thư nói chung và tập trung vào Ung thư vú và di truyền trong bệnh lý ung thư.
Bác sĩ Ang được công nhận về khả năng quản lý và chuyên môn là Bác sĩ Chuyên gia về Ung thư vú, và Chuyên gia hàng đầu về Ung thư của Nhóm nghiên cứu về Ung thư vú (2002) ở Trung tâm Ung thư Quốc gia, Singapore và Nhóm Singhealth. Bác sĩ Ang có nhiều thông tin khoa học về Ung thư và chăm sóc đặc biệt cho nhiều bệnh nhân bị các bệnh ung thư khác nhau, bao gồm ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư đại trực tràng, u lympho, ung thư thận, ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư tử cung, và ung thư cổ tử cung. Bác sĩ Ang hoạt động tích cực trong các nghiên cứu ung thư tịnh tiến (chuyển giao công nghệ) và lâm sàng trong rất nhiều năm về các bệnh ung thư vú, ung thư đại tràng, ung thư phổi và các bệnh ung thư khác.
Hồ sơ Y của Bác sĩ Peter Ang
Tốt nghiệp ở Đại học Quốc gia Singapore năm 1991.
Thạc sĩ Y (Nội Khoa) và thành viên của Trường Đại học Y Hoàng gia (Royal College of Physicians) (Vương quốc Anh) năm 1997
Giải thưởng Học bổng Chương trình Phát triển Nguồn Nhân lực (HMDP) của Bộ Y tế được đào tạo chuyên sâu ở Viện Ung thư Dana Farber (Chi nhánh Giảng dạy của Trường Y Harvard), Boston USA 2000-2001
Bác sĩ Ang là Bác sĩ Chuyên gia về Ung thư vú hàng đầu của Nhóm Nghiên cứu Ung thư vú (2002) của Trung tâm Ung thư Quốc gia và Nhóm Singhealth và tham gia vào Kế hoạch Quản lý Sức khỏe Ung thư vú (2003). Bác sĩ Ang là người tiên phong trong Chương trình Giáo dục Ung thư Cộng đồng với Phát triển Dịch vụ Ung thư Singhealth.

Các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh ung thư vú?

Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở nữ giới ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Trong khoảng 40 năm trước thì tỷ lệ ung thư vú ở Singapore tăng hơn 2 lần từ 25 đến 65 trên 100,000 nữ giới. Các bệnh ung thư vú chiếm khoảng 1/3 trường hợp ung thư ở nữ giới ở địa phương, với tỷ lệ bắt đầu tăng sau tuổi 40. Nhưng xuất hiện ung thư vú khởi phát trẻ ở nữ giới trong độ tuổi 20 và 30 và số lượng các trường hợp được báo cáo tăng trong nhóm độ tuổi này. Đáng chú ý, nam giới có thể bị ung thư vú nhưng ít phổ biến hơn.
Dấu hiệu phổ biến nhất của ung thư vú là cục u thường không đau, nhưng có thể mềm hoặc đau. Các dấu hiệu khác gồm có đầu vú đột nhiên thụt vào (co rút núm vú), tiết dịch núm vú, các nốt lympho sưng phồng ở vùng nách (thậm chí có thể xuất hiện trước khi có cảm giác khối u vú), sưng phồng tất cả hoặc một phần của vú, đỏ da trên vú, có thể giống viêm và/hoặc lúm da mà nhìn giống sần vỏ cam.
Quan trọng là ung thư vú cần được phát hiện sớm vì khi phát hiện ở giai đoạn sớm thì có khả năng chữa khỏi cao hơn và giảm tối đa quá trình điều trị. Khi phát hiện đang ở giai đoạn 0, có thể không cần phải hóa trị

Sàng lọc ung thư vú

Sàng lọc (tầm soát) ung thư vú là vấn đề quan trọng vì phát hiện sớm các bệnh ung thư ở giai đoạn sớm hơn thì khi đó các phương pháp điều trị có thể ít phức tạp hơn và có kết quả tốt hơn.
Chụp X-quang tuyến vú là phương pháp chính để sàng lọc. Đó là một xét nghiệm đơn giản sử dụng tia X để có được các hình ảnh về tuyến vú ở các góc độ khác nhau và yêu cầu ép vú (nén vú giữa các mái chèo) để giảm độ dày. Liều bức xạ rất thấp do đó rủi ro cho sức khỏe là rất thấp. Phát hiện bất thường trên các hình ảnh chụp X-quang không tự động có nghĩa là một người bị ung thư và nhiều người không có lý do gì để lo lắng.
Tần suất sàng lọc:
Chụp X-quang tuyến vú cho người từ 50 đến 69 tuổi định kỳ 2 năm 1 lần.
Từ 40 đến 49 tuổi thì cần trao đổi với bác sĩ của bạn về các lợi ích, các hạn chế và các nguy cơ tiềm ẩn. Nếu bạn quyết định xét nghiệm thì thực hiện định kỳ hàng năm.
Cho dù hiện nay tự kiểm tra vú không còn là một phần của các khuyến nghị kiểm tra sàng lọc chính thức, nhưng cần xem xét hình ảnh bình thường và cảm giác của vú để có khả năng nhận biết kịp thời bất kì thay đổi nào.
Chụp cộng hưởng từ (MRI) tuyến vú có thể được thực hiện với chụp X-quang tuyến vú để sàng lọc các nữ giới có nguy cơ cao người mà mang đột biến gen (ví dụ đột biến gen BRCA) vì các đột biến gen tăng rủi ro ung thư vú suốt đời.

breast cancer treatment in Singapore, mammography

Các loại ung thư vú?

Ung thư vú điển hình thường xuất hiện khi các tế bào bất thường trong tuyến vú bắt đầu phát triển không thể kiểm soát được tạo thành khối u. Thường xuyên nhất là phát sinh từ các ống dẫn sữa của vú (các bệnh ung thư ống dẫn sữa) hoặc ít phổ biến hơn là từ các tuyến tạo sữa (các bệnh ung thư tiểu thùy). Có nhiều các loại ung thư vú khác như là các u diệp thể vú ác tính, hoặc các u bắt nguồn từ các loại mô khác cư trú trong vú như là các u lympho (mô lympho) hoặc các u sarcom (mô liên kết, các mạch máu). Bệnh Paget ở vú là một dạng hiếm của ung thư vú phát sinh trong và xung quanh đầu núm vú.
Một nhóm ung thư vú dựa vào sự xuất hiện của mô khi sinh thiết gồm có các bệnh ung thư ống dẫn sữa xâm lấn chiếm khoảng 80%, với tần suất các bệnh ung thư xâm lấn thì thấp hơn nhiều (khoảng 10%). Các bệnh ung thư vú có thể xuất hiện rất sớm như các u ung thư biểu mô ống tại chỗ (ung thư biểu mô ống vú không xâm nhập) (DCIS). DCIS là các bệnh ung thư giai đoạn 0 và không có khả năng lan rộng đến các vị trí ở xa vú. Vì thế mà DCIS có tiên lượng rất tốt.

Các yếu tố nguy cơ và nguyên nhân gây ung thư vú?

Có rất nhiều các yếu tố rủi ro nhưng nhiều người bị ung thư vú không có bất kì yếu tố rủi ro nào. Không có yếu tố rủi ro cụ thể trực tiếp gây ung thư vú và thường có thể là sự kết hợp của một số yếu tố hoặc không có yếu tố nào. Một số yếu tố tăng nguy cơ ung thư vú:

Tuổi – rủi ro ung thư vú tăng khi già đi

Giới tính – phổ biến hơn gấp 100 lần ở nữ giới so với nam giới

Mức độ Estrogen – mức estrogen cao hơn có quan hệ với tăng nguy cơ đặc biệt là ung thư vú dương tính thụ thể hormon.

Mô vú dày đặc – người có mô vú dày đặc được nhìn thấy qua chụp X-quang vú có nguy cơ cao

Tuổi khi bắt đầu có kinh nguyệt sớm hoặc tuổi mãn kinh muộn

Nữ giới không có con

Có lịch sử (tiền sử) bị ung thư vú

Nữ giới sinh con đầu tiên khi cao tuổi

Có lịch sử gia đình bị ung thư vú trong mối quan hệ gia đình cấp đầu tiên (mẹ, chị em gái, bố) đặc biệt nếu bị chẩn đoán ung thư vú khi trẻ tuổi.

Người mang đột biến gen di truyền

Người thường xuyên uống rượu

Tiếp xúc với các chất phóng xạ ở ngực (phơi nhiễm với tia xạ thành ngực) khi điều trị các bệnh ung thư khác như u lympho Hodgkin hoặc do các trường hợp không lường trước được đặc biệt khi ở độ tuổi trẻ mà có thể tăng nguy cơ ung thư vú.

Các thay đổi trong cách sống có thể giảm hoặc loại bỏ một số yếu tố rủi ro:

Cho con bú – là một phản ứng bảo vệ được thấy trong một số nghiên cứu.

Hoạt động thể thao thường xuyên để duy trì cân nặng khỏe mạnh có thể giúp bảo vệ vú.

Hạn chế hoặc không uống rượu.

Không có bằng chứng mạnh về mối liên quan giữa chế độ dinh dưỡng và ung thư vú nhưng duy trì chế độ ăn uống cân bằng tốt bao gồm các loại rau, cá và ít thịt đỏ có lợi ích cho sức khỏe nói chung và hạnh phúc.

Các giai đoạn của ung thư vú?

Biết được các giai đoạn của ung thư vú có vai trò quan trọng trong chiến lược điều trị ung thư vú và tiên lượng. Giai đoạn ung thư vú được dựa vào kích thước khối u, lan rộng tới các nốt lympho trong vùng và các cơ quan xa hơn. Giai đoạn ung thư vú được xác định bởi tình trạng thụ thể progesterone và estrogen, trạng thái HER2 và loại ung thư vú (các tế bào khác như thế nào khi so với các tế bào bình thường). Giai đoạn 0 là nói đến DCIS không xâm nhập, giai đoạn I-III là ung thư vú xâm nhập được xác định trong vú và/hoặc các nốt lympho gần đó (trong vùng), và giai đoạn IV nói đến ung thư vú tiến xa đến các cơ quan khác và các vị trí xa hơn.