Liệu pháp nội tiết trong điều trị ung thư vú giai đoạn nặng và các dòng thuốc mới để khắc phục tình trạng kháng thuốc

OncoCare

Giáo dục bệnh nhân

Liệu pháp nội tiết trong điều trị ung thư vú giai đoạn nặng và các dòng thuốc mới để khắc phục tình trạng kháng thuốc

Bởi vì khả năng kháng lại các liệu pháp nội tiết tố có thể xảy ra ở 1/4 số trường hợp, nên các chiến lược điều trị mới hơn đã được phát triển để cố gắng khắc phục điều này. Có một số loại thuốc uống như palbociclib, ribociclib hoặc everolimus mà khi kết hợp với các liệu pháp nội tiết tố đã có từ trước sẽ cải thiện kết quả bệnh.

Cả palbociclib (Ibrance) và ribociclib (Kisqali) đều thuộc nhóm thuốc được gọi là chất ức chế CDK4/5, ngăn chặn các protein trong tế bào gọi là kinase phụ thuộc cyclin (CDK), đặc biệt là CDK4 và CDK6. Điều này cản trở sự phân chia tế bào và do đó ngăn chặn sự phát triển của ung thư. Palbociclib (Ibrance) và Ribociclib (Kisqali) đều được phê duyệt để điều trị ung thư vú di căn dương tính với thụ thể hormone ở phụ nữ sau mãn kinh. Việc sử dụng Palbociclib (Ibrance) đã được nghiên cứu kết hợp với các liệu pháp nội tiết tố như letrozole (Femara) và fulvestrant (Faslodex) và Ribociclib (Kisqali) đã được nghiên cứu kết hợp với letrozole (Femara) và các kết hợp thuốc mới này đã cho thấy kết quả bệnh được cải thiện. Có rất nhiều thử nghiệm đang diễn ra để đánh giá nhóm thuốc này ở cả bệnh ung thư vú giai đoạn muộn và giai đoạn đầu.

Introduction

Đã có nhiều thông tin công khai về việc sử dụng liệu pháp nhắm mục tiêu để điều trị ung thư. Liệu pháp "nhắm mục tiêu" đầu tiên cho bệnh ung thư vú là gì? Vâng, trên thực tế, nó nên là liệu pháp nội tiết tố hoặc nội tiết. Sự phát triển của các phương pháp điều trị bằng cách sử dụng thuốc nhắm vào thụ thể estrogen (hoặc estrogen) biểu hiện ung thư vú là một trong những tiến bộ vượt bậc của ngành ung thư. Hơn một thế kỷ trước, người ta phát hiện ra rằng việc cắt bỏ hoặc loại bỏ chức năng nội tiết tố của buồng trứng, tuyến yên hoặc tuyến thượng thận là một cách điều trị cho một số bệnh nhân ung thư vú giai đoạn muộn. Mãi cho đến khoảng 50 năm trước, khi có các thụ thể hormone steroid, được gọi là thụ thể estrogen (ER) và thụ thể progesterone (PR), khối u mới biểu hiện qua trung gian lợi ích này. Biểu hiện ER hoặc ung thư vú dương tính với ER sau đó là mục tiêu cho các liệu pháp chống estrogen. Thuốc sau đó đã được phát triển để hoạt động trên con đường thụ thể estrogen. Một số loại thuốc này bao gồm SERM (Bộ điều biến thụ thể Estrogen chọn lọc) và chất ức chế aromatase.

Ung thư là không đồng nhất, có nghĩa là các tế bào ung thư khác nhau đã được quan sát thấy có những đặc điểm, biểu hiện gen, trao đổi chất, khả năng di căn riêng biệt. Những khác biệt này tồn tại và có thể không phải lúc nào cũng rõ ràng đối với các nhà quan sát ban đầu. Ví dụ, trong một trang trại gà, những con gà sẽ trông khá giống nhau nhưng vẫn có sự khác biệt giữa chúng với người quan sát cẩn thận. Sự khác biệt trong các tế bào khối u có thể xảy ra giữa các khối u (không đồng nhất giữa các khối u) hoặc trong các khối u (không đồng nhất trong khối u). Điều này có ý nghĩa đối với việc điều trị vì chúng tôi phân loại các chiến lược điều trị của mình. Điều này cũng giải thích tại sao ở những bệnh nhân có khối lượng hoặc số lượng tế bào khối u lớn (đặc biệt là trong tình trạng di căn), chúng tôi gặp khó khăn trong việc loại bỏ tất cả các tế bào khối u.

Trong ung thư vú, dựa trên hồ sơ phân tử, các khối u đã được phân loại theo biểu hiện của thụ thể estrogen (ER), thụ thể progesterone (PR) và tình trạng thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì 2 ở người (HER2, còn được gọi là HER2/neu) thành nhiều phân nhóm lâm sàng :

1. Được điều trị như ung thư vú dương tính với hormone (hoặc nội tiết dương tính)

ER dương tính, PR dương tính, HER2 âm tính

ER dương tính, PR âm tính, HER2 âm tính

ER âm tính, PR dương tính, HER2 âm tính (không phổ biến)

2. Được điều trị là ung thư vú dương tính với HER2 (hoặc HER 2 neu dương tính)

ER âm tính, PR âm tính, HER2 dương tính

ER tích cực, PR tích cực, HER2 dương tính

ER dương tính, PR âm tính, HER2 dương tính

ER âm tính, PR dương tính, HER2 dương tính (không phổ biến)

3. Được điều trị như ung thư vú ba âm tính (TNBC)

ER âm tính, PR âm tính, HER2 âm tính

Điều trị ung thư vú dương tính với ER

Thụ thể estrogen (hoặc thụ thể estrogen) được biểu hiện trong khoảng 70% tất cả các bệnh ung thư vú và các liệu pháp nội tiết là phương pháp điều trị chính cho các khối u này. Có nhiều lựa chọn nội tiết khác nhau có sẵn . Liệu pháp nội tiết tố có thể được sử dụng như một phần của phương pháp điều trị tổng thể cho bệnh ung thư vú của bạn, chiến lược tối ưu sẽ được bác sĩ chuyên khoa ung thư của bạn xác định.

Year Drug Mechanism
1896

1977

1990s

2000s

Ovarian ablation/suppression

Surgical (removal of both ovaries aka oophorectomy)

Radiotherapy

Medical (GnRH analogues)

SERMS Tamoxifen

Aromatase Inhibitors

Exemestane (Aromasin)

Letrozole (Femara)

Estrogen receptor downregulators

Fulvestrant (Faslodex)

Estrogen deprivation in premenopausal women

Antagonizes estrogen receptors in breast tissue

Antagonizes conversion of androstendione and to estradiol in peripheral tissues (fat, liver, muscle, brain)

Impairs ER dimerization, increases ER degradation, and disrupts nuclear localisation of ER

 

“Kiến thức chuyên môn có nghĩa là chăm sóc bệnh ung thư tốt hơn”

Written by:

Dr Tan Sing Huang Dr Peter Ang
MBBS (Singapore) MBBS (Singapore)
M.Med (Singapore) MMed (Int Med)
MRCP (UK) MRCP (UK)
FAMS (Ung thư nội khoa) FAMS (Ung thư nội khoa)