Chẩn đoán & điều trị ung thư tuyến tiền liệt ở Singapore

Phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt ở Singapore là gì?

Trình bày các phương pháp điều trị cho cả ung thư khu trú và ung thư thận di căn

Có các phương pháp điều trị khác nhau cho người bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Các phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt thường sử dụng ở một thời điểm nhưng trong một số trường hợp có thể sử dụng kết hợp các phương pháp. Phụ thuộc vào giai đoạn và tình trạng người bệnh, quyết định chọn phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt có thể là:

Vì ung thư tuyến tiền liệt thường phát triển rất chậm, đặc biệt ở một số nam giới lớn tuổi (người già) hoặc có các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng khác, có thể không cần điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Do đó, bác sĩ có thể chỉ khuyến nghị quan sát hoặc giám sát tích cực.

Quan sát, hoặc đôi khi được gọi là ‘cảnh giác chờ đợi’, được dùng để mô tả cách theo dõi người bệnh ít chuyên sâu hơn, có thể là ít các xét nghiệm hơn. Trước khi quyết định phương pháp điều trị thì cần dựa vào các thay đổi của các triệu chứng của người bệnh ung thư tuyến tiền liệt nhiều hay ít. Cách điều trị thường để kiểm soát các triệu chứng của bệnh ung thư mà không là điều trị chữa khỏi bệnh.

Giám sát tích cực là theo dõi ung thư tuyến tiền liệt nhiều hơn, thường có bác sĩ khám bệnh với xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) trong máu định kỳ 6 tháng 1 lần, và khám trực tràng bằng ngón tay (DRE) 1 năm 1 lần. Sinh thiết tuyến tiền liệt và xét nghiệm hình ảnh có thể được tiến hành định kỳ từ 1 đến 3 năm 1 lần. Phụ thuộc vào kết quả xét nghiệm và các thay đổi, nếu có, thì bác sĩ khuyến nghị phương pháp điều trị để điều trị ung thư tuyến tiền liệt (cố gắng chữa khỏi bệnh).

Phẫu thuật là phương pháp điều trị phổ biến để chữa khỏi bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Người bệnh với tình hình sức khỏe tốt có khối u không lan truyền ngoài tuyến tiền liệt có thể được điều trị bằng cách phẫu thuật để cắt bỏ khối u.

Cách phẫu thuật chính đối với ung thư tuyến tiền liệt là cắt tuyến tiền liệt triệt căn. Trong quá trình phẫu thuật, bác sĩ phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến tiền liệt và một ít mô xung quanh, trong đó có túi tinh. Ở thời điểm đó, bác sĩ có thể loại bỏ các hạch bạch huyết gần đó.

Các kỹ thuật phẫu thuật cắt tuyến tiền liệt triệt căn là:

  • Cắt tuyến tiền liệt tận gốc mổ mở: Trong kỹ thuật phẫu thuật mở, một đường mổ hoặc cắt được tiến hành ở vùng sau mu (bụng dưới) hoặc đáy chậu (vùng giữa hậu môn và bìu). Phẫu thuật được tiến hành thông qua vết mổ. Nếu có nghi ngờ về ung thư có thể lan truyền đến các hạch bạch huyết gần đó (dựa vào mức PSA của người bệnh, kết quả sinh thiết tuyến tiền liệt và các yếu tố khác), do đó mà bác sĩ phẫu thuật có thể loại bỏ một số hạch bạch huyết bị ảnh hưởng (được biết là bóc tách hạch bạch huyết vùng chậu), sau đó các hạch bạch huyết đó được mang đến phòng thí nghiệm để kiểm tra các tế bào ung thư.
  • Cắt tuyến tiền liệt tận gốc nội soi: Một số đường rạch cắt nhỏ ở thành ổ bụng. Một máy nội soi (dụng cụ với ống mềm, mỏng với đèn sáng và kính lúp để quan sát) được đưa vào cơ thể qua lỗ mở để tiến hành phẫu thuật, trong khi đó các dụng cụ phẫu thuật được đi vào các vị trí mở khác để cắt bỏ tuyến tiền liệt.
  • Cắt tuyến tiền liệt tận gốc nội soi có trợ giúp của robot: là cách phẫu thuật được gọi là cắt tuyến tiền liệt bởi robot, phẫu thuật nội soi sử dụng một hệ thống robot. Một số đường cắt nhỏ ở thành ổ bụng của người bệnh. Bác sĩ phẫu thuật đưa một dụng cụ có máy ảnh quan sát vào một trong các vị trí mở có sử dụng các cánh tay robot. Máy ảnh cung cấp cho bác sĩ phẫu thuật nhìn thấy với hình ảnh ba chiều về tuyến tiền liệt và các tổ chức xung quanh.
  • Cắt tuyến tiền liệt qua niệu đạo (TURP): Phẫu thuật TURP thường được tiến hành để điều trị nam giới bị phì đại tuyến tiền liệt không ung thư được gọi là tăng sản lành tính tuyến tiền liệt (BPH). Đôi khi, TURP được tiến hành ở nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt tiến triển để giúp giảm bớt các triệu chứng (như tắc nghẽn đường tiết niệu) mà TURP không điều trị hoặc chữa khỏi bệnh ung thư. Trong phẫu thuật TURP, bác sĩ dùng một ống hẹp với dụng cụ cắt được gọi là nội soi bàng quang đi vào niệu đạo và đến tuyến tiền liệt để cắt bỏ mô tuyến tiền liệt.

Xạ trị thường sử dụng các tia năng lượng cao để phá hủy các tế bào ung thư. Phác đồ xạ trị, hoặc kế hoạch xạ trị, thường bao gồm có một số lần điều trị được tiến hành trong một khoảng thời gian nhất định.

Phụ thuộc vào giai đoạn bệnh ung thư tuyến tiền liệt và các yếu tố khác, xạ trị có thể được tiến hành trong các trường hợp:

  • Xạ trị là phương pháp điều trị ung thư đầu tiên khi mà ung thư chỉ ở tuyến tiền liệt và độ biệt hóa thấp. Tỷ lệ chữa khỏi bệnh đối với nam giới bị ung thư đó được xạ trị thì bằng với nam giới được điều trị bằng cách cắt tuyến tiền liệt triệt căn.
  • Xạ trị là một phần của phương pháp điều trị ung thư đầu tiên khi mà ung thư phát triển ngoài tuyến tiền liệt và lan truyền đến các mô gần đó. Xạ trị được tiến hành đồng thời với liệu pháp hormon.
  • Xạ trị thường được tiến hành khi ung thư không thể loại bỏ được hoàn toàn hoặc bị tái phát xung quanh tuyến tiền liệt sau khi phẫu thuật.
  • Nếu ung thư đang tiến triển, xạ trị thường giúp kiểm soát ung thư và giúp tránh hoặc giảm bớt các triệu chứng của bệnh.

Có các loại xạ trị khác nhau:

Xạ trị ngoài: là loại xạ trị phổ biến nhất. Các chùm tia phóng xạ tập trung vào tuyến tiền liệt từ một máy chiếu xạ ở ngoài cơ thể. Loại xạ trị ngoài có thể được dùng để cố gắng chữa khỏi bệnh ung thư ở giai đoạn sớm hơn, hoặc giúp giảm bớt các triệu chứng như đau xương nếu ung thư lan truyền đến các vùng xương cụ thể.

Một cách xạ trị ngoài khác được dùng để điều trị ung thư tuyến tiền liệt, được gọi là xạ trị giảm phân liều. Đó là khidùng liều phóng xạ hàng ngày cao hơn cho người bệnh trong khoảng thời gian ngắn hơn, thay vì là dùng các liều thấp hơn trong khoảng thời gian dài hơn. Xạ trị giảm phân liều khi mà toàn bộ quá trình điều trị với xạ trị được tiến hành trong năm lần điều trị hoặc ít hơn. Đó được gọi là kỹ thuật xạ trị lập thể định vị thân (SBRT) hoặc xạ trị lập thể cắt (SABR).

Xạ trị áp sát: Xạ trị áp sát hoặc xạ trị trong, là nguồn phóng xạ được đi vào trong cơ thể trực tiếp đến tuyến tiền liệt. Nguồn phóng xạ, được gọi là hạt, giải phóng phóng xạ quanh vùng mà cần xạ trị và có thể trong thời gian ngắn (liều cao) hoặc thời gian dài hơn (liều thấp). Hạt liều thấp được ở trong tuyến tiền liệt và hoạt động đến một năm. Xạ trị áp sát liều cao thường ở trong cơ thể với thời gian dưới 30 phút, nhưng có thể cần nhiều lần xạ trị. Xạ trị áp sát có thể được kết hợp với các phương pháp điều trị khác, như xạ trị ngoài và/hoặc liệu pháp hormon.

Xạ trị ba chiều theo hình dạng khối u (3D-CRT): 3D-CRT là kỹ thuật xạ trị sử dụng máy vi tính để tạo hình ảnh chính xác về vị trí của tuyến tiền liệt. Sau đó chùm tia phóng xạ được định hình và hướngmục tiêu vào tuyến tiền liệt theo một số hướng. Từ đó giúp xạ trị không gây tổn thương đến các mô bình thường xung quanh và các cơ quan khác.

Xạ trị điều biến liều (IMRT): IMRT là cách xạ trị tiên tiến của cách 3D-CRT, là loại xạ trị ngoài phổ biến nhất cho người bệnh ung thư tuyến tiền liệt. IMRT sử dụng chụp cắt lớp vi tính CT để tạo hình ảnh 3D về tuyến tiền liệt trước khi xạ trị. Một máy vi tính sử dụng thông tin về kích thước, hình dạng và vị trí của ung thư tuyến tiền liệt để xác định chính xác mức phóng xạ cần thiết để phá hủy khối u (ung thư). Với IMRT, xạ trị liều cao có thể trực tiếp đến tuyến tiền liệt mà không tăng nguy cơ tổn thương đến các cơ quan gần đó.

Xạ trị proton: Xạ trị proton, được gọi là liệu pháp chùm hạt proton, là một cách xạ trị ngoài với các hạt proton mà không là các tia X. Ở mức năng lượng cao, các hạt proton có thể phá hủy các tế bào ung thư. Khác với tia X, do tia X giải phóng năng lượng trước khi và sau khi đến đích, thì các hạt proton gây ít tổn hại đến các mô mà chúng đi qua hơn và chỉ giải phóng năng lượng khi đi được một khoảng cách xác định. Do đó mà xạ trị proton có thể vận chuyển nhiều phóng xạ hơn đến tuyến tiền liệt và ít gây tổn thương đến các mô bình thường gần đó hơn. Xạ trị proton có thể tiến hành với các kỹ thuật giống với 3D-CRT và IMRT.

Xạ trị lập thể định vị thân (SBRT): Trong kỹ thuật SBRT, sử dụng hình ảnh chất lượng cao bởi các kỹ thuật hình ảnh và phân bố phóng xạ liều cao đến vùng tuyến tiền liệt chính xác. Do liều phóng xạ lớn trong mỗi lần xạ trị vì thế toàn bộ liệu trình xạ trị chỉ trong một ít ngày.

Liệu pháp hormon là phương pháp điều trị ung thư giảm lượng hormon hoặc giảm hoạt động của các hormon để dừng sự phát triển của các tế bào ung thư. Vì ung thư tuyến tiền liệt phát triển được điều khiển bởi các hormon sinh dục của nam giới, được gọi là androgens, do đó nếu mức hormon androgen giảm thấp có thể giúp giảm sự phát triển của ung thư. Androgens phổ biến nhất là testosterone. Liệu pháp hormon giảm mức testosterone trong cơ thể bằng cách phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn, thường được biết là phẫu thuật thiến, hoặc bằng cách dùng các thuốc tắt chức năng của tinh hoàn, được biết là thiến hóa học(cắt tinh hoàn bằng thuốc). Liệu pháp nội tiết hormon nào được sử dụng ít quan trọng hơn khi mà cần tập trung vào mục tiêu chính là giảm mức testosterone. Phương pháp có thể được gọi với tên khác, là liệu pháp ức chế androgen (androgen-deprivation therapy (ADT)).

Nếu chỉ điều trị bằng liệu pháp hormon thì không thể chữa khỏi bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Liệu pháp hormon có thể chỉ được tiến hành trong các trường hợp:

  • Ung thư lan truyền quá xa không thể chữa khỏi bệnh chỉ bằng phẫu thuật hoặc xạ trị
  • Nếu ung thư tồn tại hoặc tái phát sau khi điều trị với phẫu thuật hoặc xạ trị
  • Liệu pháp hormon kết hợp với xạ trị như là phương pháp điều trị đầu tiên, hoặc nếu người bệnh có nguy cơ cao ung thư tái phát sau điều trị, và/hoặc phát triển ung thư ngoài tuyến tiền liệt
  • Trước khi xạ trị giúp thu nhỏ khối u ung thư để điều trị hiệu quả hơn
    Một số loại của liệu pháp hormon có thể được dùng để điều trị ung thư tuyến tiền liệt:
  • Cắt bỏ tinh hoàn (phẫu thuật thiến): Dù đó là phương thức phẫu thuật nhưng hiệu ứng chính thì như là một dạng của liệu pháp hormon. Trong phẫu thuật, bác sĩ cắt bỏ tinh hoàn, nơi mà hầu hết androgens (như testosterone và DHT)được tạo. Từ đó mà đa số ung thư tuyến tiền liệt bị dừng phát triển hoặc giảm bệnh theo thời gian.
  • Thuốc đồng vận LHRH (LHRH Agonists): các thuốc đồng vận hormon giải phóng hormon Luteinizing (LHRH Agonists), được gọi là LHRH analogs hoặc GnRH agonists, là các thuốc giúp giảm lượng testosterone được sản xuất bởi tinh hoàn. Điều trị với thuốc đồng vận LHRH giống như thiến hóa học (được gọi là cắt tinh hoàn bằng thuốc) vì đều giảm mức androgen như cắt tinh hoàn. Khi sử dụng thuốc đồng vận LHRH thì tinh hoàn được bảo tồn, nhưng bị teo dần theo thời gian. Thuốc đồng vận LHRH được tiêm hoặc đặt dưới dạng cấy ghép nhỏ dưới da. Phụ thuộc vào loại thuốc nào thì được sử dụng từ một tháng một lần đến sáu tháng một lần (định kì hàng tháng cho đến mỗi sáu tháng).
  • Thuốc đối vận LHRH: Thuốc đối vận LHRH, được gọi là chất đối vận hormon giải phóng gonadotropin (GnRH), dừng tinh hoàn sản xuất testosterone giống chất đồng vận LHRH. Nhưng thuốc đối vận LHRH giảm lượng testosterone nhanh hơn và không gây phản ứng ngược liên quan đến chất đồng vận LHRH. Điều trị với các thuốc đối vận LHRH có thể được xem như dạng thiến hóa học (cắt tinh hoàn bằng thuốc).
  • Các chất ức chế thụ thể androgen: Đối với hầu hết các tế bào ung thư tuyến tiền liệt phát triển theo cách các androgen cần gắn vào protein trong tế bào ung thư tuyến tiền liệt được gọi là thụ thể androgen. Các thuốc kháng androgen kết nối các thụ thể androgen giúp chặn androgens để không phát triển khối u. Các thuốc kháng androgen có khi được gọi là chất đối vận thụ thể androgen. Các thuốc ức chế thụ thể androgen được uống hàng ngày nhưng thường không được sử dụng riêng để điều trị ung thư. Thế hệ mới của thuốc ức chế thụ thể androgen mạnh hơn và hiệu quả hơn như Enzalutamide, Apalutamide và Darolutamide.
  • Các thuốc hormon mới như Abiraterone Acetate làm gián đoạn quá trình sản xuất androgen ở tinh hoàn, tuyến thượng thận và tế bào ung thư.

Liệu pháp miễn dịch, được gọi là liệu pháp sinh học, được thiết kế giúp tăng cường phản ứng phòng vệ tự nhiên của cơ thể để chiến đấu với ung thư. Liệu pháp sinh học sử dụng các chất được tạo bởi cơ thể hoặc trong phòng thí nghiệm để tăng cường chức năng của hệ thống miễn dịch.

Điều trị Ung thư tuyến tiền liệt: Liệu pháp đích
Điều trị Ung thư tuyến tiền liệt: Liệu pháp miễn dịch
Liệu pháp miễn dịch, được gọi là liệu pháp sinh học, được thiết kế giúp tăng cường phản ứng phòng vệ tự nhiên của cơ thể để chiến đấu với ung thư. Liệu pháp sinh học sử dụng các chất được tạo bởi cơ thể hoặc trong phòng thí nghiệm để tăng cường chức năng của hệ thống miễn dịch.
• Sipuleucel-T (Provenge): Đối với một số người bệnh bị ung thư tuyến tiền liệt di căn chống thiến (kháng cắt tinh hoàn) không có hoặc có rất ít các triệu chứng của ung thư và thường không hóa trị, liệu pháp vắc xin với Sipuleucel-T (Provenge) có thể được dùng. Không giống như các vắc xin truyền thống giúp tăng cường hệ thống miễn dịch của cơ thể tránh bị nhiễm trùng, Sipuleucel-T (Provenge) tăng cường hệ thống miễn dịch giúp cơ thể tấn công các tế bào ung thư tuyến tiền liệt.

Vắc xin được tạo đặc hiệu cho mỗi nam giới và được dùng để điều trị ung thư tuyến tiền liệt tiến triển, mà không đáp ứng với liệu pháp hormon. Để tạo vắc xin, các tế bào bạch cầu (các tế bào của hệ thống miễn dịch) được lấy từ máu của người bệnh trong khoảng một số tiếng đồng hồ khi cơ thể người bệnh được nối với một máy đặc biệt. Các tế bào sau đó được mang đến phòng thí nghiệm, ở phòng thí nghiệm các tế bào bạch cầu được kết hợp với protein từ các tế bào ung thư tuyến tiền liệt được gọi là prostatic acid phosphatase (PAP). Tiếp theo các tế bào bạch cầu này được mang đến phòng khám hoặc bệnh viện, để truyền tĩnh mạch (IV) vào người bệnh. Quá trình đó được tiến hành ba lần cách nhau hai tuần từ đó người bệnh có được ba liều tế bào. Các tế bào giúp các tế bào hệ thống miễn dịch của người bệnh tấn công ung thư tuyến tiền liệt.

• Chất ức chế PD-1: Liệu pháp miễn dịch khác là chất ức chế PD-1. Pembrolizumab (Keytruda) là thuốc có đích PD-1, một protein điểm kiểm soát trên các tế bào hệ thống miễn dịch được gọi là các tế bào T, thường kiểm soát các tế bào T không tấn công các tế bào bình thường của cơ thể. Bằng cách khóa PD-1, thuốc tăng cường phản ứng miễn dịch chống các tế bào ung thư tuyến tiền liệt. Liệu pháp miễn dịch với chất ức chế PD-1 cho thấy các kết quả cao ở một số nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt và đang tiếp tục được nghiên cứu. Thuốc được truyền tĩnh mạch (IV) định kì hai hoặc ba tuần một lần.

• Chất ức chế PARP: Các nghiên cứu cho thấy là 20%-30% nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt di căn có các biến đổi gen gây tổn hại các cơ chế sửa chữa DNA của các tế bào. Các đột biến hoặc các biến đổi có thể được phát hiện với các đặc trưng bộ gen của khối u và các tế bào bình thường của người bệnh. Hai thuốc Olaparib và Rucaparib được FDA đồng ý cho điều trị ung thư tuyến tiền liệt chống thiến (kháng cắt tinh hoàn) di căn tiến triển mà có các biến đổi gen (BRCA 1 và 2, ATM và các gen con đường sửa chữa DNA khác.


Hóa trị là phương pháp điều trị ung thư sử dụng các thuốc để dừng sự phát triển của các tế bào ung thư, bằng cách giết các tế bào hoặc dừng các tế bào phân chia. Khi hóa trị dùng thuốc uống (đường miệng) hoặc tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp, các thuốc đi vào dòng máu và có thể đến các tế bào ung thư ở toàn bộ cơ thể. Do đó hóa trị thường được gọi là liệu pháp hóa trị toàn thân.
Hóa trị thường được tiến hành khi ung thư tuyến tiền liệt lan truyền ngoài tuyến tiền liệt, và khi liệu pháp hormon không hiệu quả. Hóa trị không là phương pháp điều trị chính đối với ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn sớm.
Đối với ung thư tuyến tiền liệt, các thuốc hóa trị thường được dùng ở một thời điểm. Một số thuốc hóa trị phổ biến được dùng để điều trị ung thư tuyến tiền liệt:
• Docetaxel (Taxotere)
• Cabazitaxel (Jevtana)
• Mitoxantrone (Novantrone)
Các thuốc được đi vào theo đường tĩnh mạch (IV) trong một khoảng thời gian. Thông thường, cần có tĩnh mạch (IV) lớn hơn và chắc chắn hơn trong hệ thống tĩnh mạch để tiến hành hóa trị. Đó được gọi là catheter tĩnh mạch trung tâm (CVCs), dụng cụ vào tĩnh mạch trung tâm (CVAD) hoặc đường truyền trung tâm. Giúp đưa thuốc, sản phẩm máu, chất dinh dưỡng hoặc chất lỏng vào máu của người bệnh, hoặc có thể giúp lấy máu đi xét nghiệm.
Hóa trị được dùng theo các chu kỳ, với mỗi chu kỳ hóa trị thì có một thời gian nghỉ cho người bệnh có thời gian phục hồi do các tác dụng phụ của thuốc. Các chu kỳ thường kéo dài 2 đến 3 tuần, và tiến trình hóa trị đó thay đổi phụ thuộc vào các thuốc được sử dụng cho điều trị.

Liệu pháp PSMA Lutetium-177, được gọi là liệu pháp kháng nguyên màng đặc hiệu tuyến tiền liệt, là điều trị đích đối với nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt tiến triển có di căn hoặc các khối u tuyến tiền liệt kháng điều trị.

Liệu pháp PSMA Lutetium-177 cho phóng xạ rất đặc hiệu và trúng đích vào các tế bào ung thư tuyến tiền liệt mà thường nhạy với phóng xạ. Mục đích của liệu pháp là giảm kích thước khối u và ổn định bệnh. Người bệnh có cơ thể không đáp ứng với các liệu pháp hoặc điều trị khác thì có thể sử dụng liệu pháp PSMA Lutetium-177.

Liệu pháp PSMA Lutetium-177 là kết hợp điều trị với chẩn đoán. Cách tiếp cận đó được gọi là ‘chẩn trị kết hợp’. Đa số ung thư tuyến tiền liệt biểu thị mức PSMA cao. Hiếm hơn, với tỷ lệ khoảng 5 đến 10% trong tổng số ung thư tuyến tiền liệt không tạo PSMA. Trước khi bắt đầu liệu pháp Lutetium-177 PSMA, chẩn đoán được thực hiện để đảm bảo rằng phóng xạ của liệu pháp được nhắm đúng vùng mà cần điều trị.

PSMA là một loại protein biểu lộ trên màng của các tế bào tuyến tiền liệt, được cho là có nhiều chức năng tế bào. Biểu mô của tuyến tiền liệt tạo PSMA tự nhiên với mức rất thấp, nhưng khi bị ung thư tuyến tiền liệt thì khối u tuyến tiền liệt có mức PSMA cực kì cao (thường cao hơn 1,000 lần so với tế bào tuyến tiền liệt bình thường). Nếu ung thư tuyến tiền liệt lan truyền đến các vùng khác của cơ thể, PSMA được phát hiện ở các vùng đó. Lutetium là phương pháp điều trị dựa vào phóng xạ, sử dụng một phân tử, gắn phân tử đó vào các thụ thể PSMA ở các tế bào ung thư. Lutetium-177 tạo bắn phóng xạ beta có tác động gây tổn hại đến các tế bào ung thư mong muốn, và theo thời gian, phá hủy các tế bào ung thư. Bằng cách trúng đích phân tử của PSMA, điều trị tập trung phóng xạ với Lutetium rất chính xác khi phân tử Lutetium liên kết với PSMA. Hành động nhắm mục tiêu vào các tế bào ung thư thường được gọi là Điều trị hạt nhân phóng xạ thụ thể Peptide (Peptide Receptor Radionuclide Therapy (PRRT)).

Có bất kỳ tác dụng phụ nào của điều trị ung thư tuyến tiền liệt không?

Phẫu thuật, giống với các phương pháp điều trị ung thư khác, có lợi ích, rủi ro, và tác dụng phụ. Sau khi phẫu thuật, thường có cảm giác đau do hiệu ứng phẫu thuật trên cơ thể. Có thể có tác dụng phụ khi cắt tuyến tiền liệt triệt căn là đi tiểu không tự chủ (không thể kiểm soát được đi tiểu) và rối loạn cương dương (bất lực hoặc các vấn đề về cương cứng).

• Đi tiểu không tự chủ: Đi tiểu không tự chủ là tình trạng người bệnh không thể kiểm soát được đi tiểu hoặc có thể bị rò rỉ nước tiểu và dòng nước tiểu nhỏ giọt. Điều đó có thể ảnh hưởng đến thể chất của người bệnh, tình yêu, đời sống xã hội. Sau khi phẫu thuật ung thư tuyến tiền liệt, thường cần khoảng một số tuần hoặc một số tháng thì có thể hồi phục hoạt động bàng quang bình thường. Do đóthường cần thời gian sau khi phẫu thuật để hồi phục kiểm soát được đi tiểu.
• Rối loạn chức năng cương dương (liệt dương): không có khả năng cương cứng dương vật đủ để giao hợp (khi quan hệ tình dục). Khả năng cương cứng sau phẫu thuật phụ thuộc vào tuổi của người bệnh, khả năng cương cứng trước khi phẫu thuật và các dây thần kinh có bị cắt bỏ không. Tất cả đàn ông có thể giảm khả năng cương cứng nhưng đối với nam giới trẻ hơn thì có nhiều khả năng cương cứng hơn. Hồi phục khả năng cương dương sau khi phẫu thuật có thể mất một số tháng đến hai năm. Thuốc hoặc điều trị khác như hồi phục chức năng dương vật có thể giúp có được chức năng sinh lý cương dương.

Xạ trị có thể gây các tác dụng phụ khi điều trị:

 

  • Tăng số lần đi tiểu và tiểu gấp
  • Rối loạn chức năng cương dương (liệt dương)
  • Chức năng ruột có vấn đề, đó là tiêu chảy, khó chịu ở trực tràng, hoặc chảy máu trực tràng
  • Mệt mỏi
  • Phù bạch huyết (sưng phù hoặc đau ở chân hoặc vùng sinh dục)

Phần lớn các tác dụng phụ thường biến mất sau khi điều trị một thời gian.

Có thể có các tác dụng phụ với liệu pháp hormon:

  • Giảm hoặc mất ham muốn tình dục
  • Rối loạn chức năng cương dương (liệt dương)
  • Teo tinh hoàn và dương vật
  • Nóng bốc hỏa, có thể biến mất theo thời gian
  • Đau vú và phát triển mô vú (bệnh vú to ở nam giới)

 

  • Loãng xương (xương mỏng dần), có thể bị gãy xương

 

  • Thiếu máu (lượng hồng cầu thấp)
  • Giảm tinh thần
  • Giảm khối cơ
  • Tăng cân nặng
  • Mệt mỏi
  • Tăng mức cholesterol
  • Trầm cảm

Thường có các tác dụng phụ khi liệu pháp miễn dịch:
• Sốt
• Ớn lạnh
• Mệt mỏi
• Đau khớp và lưng
• Buồn nôn
• Đau đầu
• Phát ban da
• Chán ăn
• Táo bón
• Tiêu chảy

Thường có các tác dụng phụ khi hóa trị:

 

  • Buồn nôn và nôn ói
  • Tiêu chảy
  • Táo bón
  • Mệt mỏi
  • Đau
  • Chán ăn
  • Rụng tóc
  • Các thay đổi ở da và móng
  • Tê và ngứa ran
  • Sưng tấy

Liệu pháp PSMA Lutetium-177 có tác dụng phụ phổ biến nhất là khô miệng và khô mắt. Đôi khi có một số người bệnh có thể bị buồn nôn hoặc nôn ói. Thờ ơ là tác dụng phụ của liệu pháp. Phần lớn các tác dụng phụ là tạm thời và thường được quản lý sau một số ngày. Ở một số người bệnh bị di căn xương nhiều vị trí và ức chế tủy là các tác dụng phụ tiềm ẩn do tổn thương đồng thời từ xạ trị vào tủy xương gần đó.

Tôi cần làm gì nếu tôi bị ung thư tuyến tiền liệt?

Ung thư tuyến tiền liệt có xu hướng phát triển chậm trong nhiều năm. Hầu hết những người đàn ông bị ung thư tuyến tiền liệt sớm không có những thay đổi mà họ nhận thấy. Dấu hiệu ung thư tuyến tiền liệt thường xuất hiện muộn hơn, khi ung thư phát triển. Một số dấu hiệu của ung thư tuyến tiền liệt là khó đi tiểu, máu trong nước tiểu, khó cương cứng và đau ở lưng, hông, xương sườn hoặc xương khác. Nếu các dấu hiệu chỉ ra ung thư tuyến tiền liệt, các xét nghiệm sẽ được thực hiện.

Nếu bạn nghi ngờ rằng bạn hoặc người thân của bạn bị ung thư tuyến tiền liệt, bạn nên nhận được sự hỗ trợ bạn cần. Phát hiện sớm và chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt là chìa khóa để điều trị bệnh.

Bất kể ung thư tuyến tiền liệt của bạn có thể ở giai đoạn nào, bạn nên lên lịch hẹn gặp bác sĩ chuyên khoa ung thư chuyên về ung thư tuyến tiền liệt càng sớm càng tốt. Với tốc độ phát triển trong chẩn đoán và điều trị ung thư tuyến tiền liệt, các lựa chọn điều trị mới nổi mới có thể được khám phá bởi bác sĩ ung thư y tế của bạn.

Các chuyên gia ung thư của chúng tôi tại OncoCare chuyên điều trị ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn cuối và giai đoạn tiến triển, cũng như các giai đoạn sớm của bệnh.

Chuyên gia ung thư thận ở Singapore là ai?

Chuyên gia cao cấp, Bác sĩ Ung thư

https://oncocare.sg/vi/specialists/dr-akhil-chopra/

Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật (Delhi) – Chứng nhận Hội đồng Hoa Kỳ (Nội khoa) – Chứng nhận Hội đồng Hoa Kỳ (Huyết học) –

Chứng nhận của Hội đồng Hoa Kỳ (Ung thư)

Trước khi tham gia vào Trung tâm Ung thư OncoCare ở Bệnh viện Mount Elizabeth, Singapore, Bác sĩ Akhil Chopra là chuyên gia cao cấp (bác sĩ ung thư) ở Khoa Ung thư ở Johns Hopkins Singapore, Bệnh viện Tan Tock Seng và Phó Giáo sư ở Trường Y Lee Kong Chian.

Bác sĩ Chopra có kinh nghiệm về điều trị nhiều loại ung thư: ung thư vú, ung thư phổi, ung thư dạ dày, đại tràng, trực tràng, gan, tuyến tiền liệt, thận, tinh hoàn và bàng quang, các bệnh ung thư phụ khoa như ung thư buồng trứng và ung thư tử cung/cổ tử cung, ung thư dạ dày và đa u tủy xương/bệnh bạch cầu mạn tính. Bên cạnh đó, bác sĩ có nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu khoa học, có tham gia giảng dạy cho sinh viên y khoa ở Trường Y Lee Kong Chian và sinh viên y khoa và y nội trú ở Đại học Johns Hopkins, Baltimore Hoa Kỳ (USA).

Hồ sơ Y của Bác sĩ Akhil Chopra

  • Tốt nghiệp Đại học Delhi năm 2001
  • Chứng nhận của Hội đồng Hoa Kỳ, Nội khoa
  • Chứng nhận của Hội đồng Hoa Kỳ, Ung thư
  • Chứng nhận của Hội đồng Hoa Kỳ, Huyết học
  • Được đào tạo ở Bệnh viện Đại học Hahnemann, Trường Y Đại học Drexel ở Philadelphia, Hoa Kỳ.

Chuyên môn về ung thư: ung thư vú, ung thư phổi, ung thư dạ dày, đại tràng, trực tràng, gan, tuyến tiền liệt, thận, tinh hoàn và bàng quang, ung thư phụ khoa: ung thư buồng trứng và tử cung/cổ tử cung.

Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật (Singapore) – Thạc sĩ Y khoa (Singapore) – Thành viên Trường Y Hoàng gia (Vương quốc Anh) – Học viện Y khoa Singapore (Ung thư)

Bác sĩ Tay Miah Hiang, là Chuyên gia cao cấp, Bác sĩ Ung thư ở Trung tâm Ung thư OncoCare, trước đó là Chuyên gia ở Khoa Ung thư Nội khoa của Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore, và Chủ tịch Chương trình Người bệnh Sống sót và Giáo dục Người bệnh. Bác sĩ Tay hoạt động trong Hội đồng Quỹ Ung thư Trẻ em Singapore từ 2006 đến 2015, và Chủ tịch của Quỹ đó từ 2011 đến 2013, và hiện nay là cố vấn cho Quỹ đó. Bác sĩ là thành viên được bầu của Hội đồng Y Singapore (SMC) từ 2017 cho đến nay.

Bác sĩ Tay đam mê đóng góp cho Giáo dục Y tế Liên tục trong khu vực, giảng dạy về quản lý ung thư cho các chuyên gia ung thư, bác sĩ đa khoa, sinh viên y khoa và bệnh nhân. Bác sĩ đạt được nhiều Giải thưởng cho dịch vụ chăm sóc sức khỏe xuất sắc và hỗ trợ nhân ái đến các vùng bị thảm họa như sau chiến tranh Afghanistan và Sri Lanka sau Tsunami.

Bác sĩ hoạt động nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu chuyển giao công nghệ trong nhiều năm, về niệu sinh dục (tinh hoàn, thận, bàng quang, tuyến tiền liệt), phổi và ung thư khác. Nghiên cứu của bác sĩ Tay về ung thư tuyến tiền liệt kháng trị hormon liên quan đến các thuốc hóa trị như docetaxel và carboplatin. Được công nhận là chuyên gia ung thư cấp cao và có thẩm quyền về ung thư tuyến tiền liệt ở Singapore, bác sĩ công bố về sử dụng ketoconazole và tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng đa trung tâm, về sử dụng abiraterone acetate trong ung thư tuyến tiền liệt kháng cắt tinh hoàn di căn tiến triển sau hóa trị.

Là người tiên phong trong ung thư thận, bác sĩ sử dụng sunitinib (Sutent), refametinib cho người bệnh ung thư thận khi các thuốc được thực hành lâm sàng ở Singapore. Bác sĩ có quyền điều trị ung thư tuyến tiền liệt ở Singapore, bác sĩ giúp phát triển hướng dẫn trong điều trị ung thư tuyến tiền liệt ở Singapore năm 2013 và quản lý ung thư thận ở Châu Á theo Hội nghị cấp cao Ung thư Châu Á 2012.

Các kết quả nghiên cứu quan trọng được bác sĩ công bố ở các tạp chí trong nước và quốc tế, bao gồm có Tạp chí Tiết niệu (Urology), Tạp chí Ung thư, và Biên niên sử về Ung thư. Bác sĩ viết các chương trong một số sách chuyên về ung thư được công nhận quốc tế như Sách toàn diện về Ung thư Niệu Sinh dục (phiên bản thứ 3), Toàn bộ Hướng dẫn về Ung thư Tuyến tiền liệt 2006 của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, và Sách về Ung thư Tiết niệu 2004.

Bác sĩ Tay được ca ngợi về kinh nghiệm trong điều trị tuyến tiền liệt, thận, tinh hoàn và bàng quang, các bệnh ung thư phụ khoa như ung thư buồng trứng và tử cung/cổ tử cung, ung thư đường tiêu hóa & gan mật, ung thư phổi, u não. Ông không gặp bệnh nhân ung thư hạch, bệnh bạch cầu và ung thư vú.

Hồ sơ Y của Bác sĩ Akhil Chopra

  • Tốt nghiệp Đại học Quốc gia Singapore năm 1992.
  • Thạc sĩ Y khoa (Nội khoa) và Thành viên Trường Y Hoàng gia (Vương quốc Anh) năm 1999.
  • Giải thưởng Học bổng Chương trình Phát triển Nguồn lao động của Bộ Y tế (HMDP) được đào tạo ở Viện Ung thư Dana Farber, (Liên kết Đào tạo của Trường Y Harvard), Boston Hoa Kỳ 2003.
  • Hoàn thành Khóa Ung thư Nội khoa và Huyết học ở Trường Y Harvard, Boston, MA, Hoa Kỳ 2003.
  • Trước đó, Bác sĩ là Chủ tịch của Giáo dục Ung thư cho Trung tâm Ung thư Quốc gia và Bác sĩ là Chủ tịch và Thành viên Ủy ban Điều hành Quỹ Ung thư Trẻ em. Bác sĩ được bầu vào Thành viên Hội đồng Y Singapore từ 2017.
  • Trong Chăm sóc Người bệnh về lâm sàng, Bác sĩ được trao Giải thưởng vì sự chăm sóc chuyên nghiệp và chân chính với Giải thưởng National Excellent Service Gold Award (EXSA*) năm 2006 và Star Award năm 2007.
  • Bác sĩ nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu chuyển giao công nghệ trong nhiều năm, về tuyến tiền liệt, thận, phổi và các bệnh ung thư khác. Có các thử nghiệm lâm sàng quốc tế về các thuốc hóa trị đang được sử dụng và điều trị đích mới hơn. Bác sĩ nghiên cứu chính cho hơn 10 thử nghiệm lâm sàng về phát triển thuốc ung thư.
  • Nghiên cứu của Bác sĩ Tay được công bố ở các tạp chí trong nước và quốc tế, trong đó có Tạp chí Tiết niệu (Urology), Tạp chí Ung thư, Biên niên sử về Ung thư. Bác sĩ viết các chương sách trong một số sách quốc tế như Sách Toàn diện về Ung thư Niệu Sinh dục (phiên bản thứ 3), Toàn bộ Hướng dẫn về Ung thư Tuyến tiền liệt 2006 của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, và Sách về Ung thư Tiết niệu 2004.
  • Với tôn trọng trong dịch vụ cộng đồng, Bác sĩ Tay có các cuộc nói chuyện ở trong nước và nước ngoài. Trong đó có Hội nghị chuyên đề Tiết niệu Malaysia lần thứ 13 và 15 với quản lý ung thư tuyến tiền liệt và ung thư tế bào thận và các Hội nghị Tiết niệu được tổ chức ở Singapore năm 2004-2007.
  • Bác sĩ có các buổi giảng dạy với tư cách là Giảng viên lâm sàng, Khoa Y, Đại học Quốc gia Singapore và là một trong các giảng viên của Khóa Đánh giá Ung thư Nội khoa Singapore đầu tiên (2007) cho bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ ung thư nội khoa, bác sĩ xạ trị và bác sĩ khác.
  • Chăm sóc giảm nhẹ cho người bệnh ung thư.
  • Chuyên môn lâm sàng về ung thư phổi, ung thư dạ dày, đại tràng, trực tràng, gan, tuyến tiền liệt, thận, tinh hoàn và bàng quang, ung thư phụ khoa như buồng trứng và tử cung/cổ tử cung, và u não.
  • (*) Giải thưởng Dịch vụ Xuất sắc Quốc gia (EXSA) là Giải thưởng Quốc gia được quản lý bởi SPRING Singapore và 9 Hiệp hội đầu ngành ở Singapore. Giải thưởng công nhận các người xuất sắc nhất trong cung cấp dịch vụ xuất sắc trong các ngành của họ. Tìm cách phát triển các mô hình để người cung cấp dịch vụ thi đua, tạo dịch vụ tốt nhất và tăng tính chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ.

Ung thư tuyến tiền liệt là gì?

Định nghĩa ung thư tuyến tiền liệt

Ung thư tuyến tiền liệt là ung thư xảy ra ở tuyến tiền liệt. Tuyến tiền liệt là một tuyến nhỏ hình quả ở nam giới tạo ra chất lỏng tinh dịch nuôi dưỡng và vận chuyển tinh trùng.

Ung thư tuyến tiền liệt là một trong những loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới. Nhiều bệnh ung thư tuyến tiền liệt phát triển chậm và chỉ giới hạn ở tuyến tiền liệt, nơi chúng có thể không gây hại nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong khi một số loại ung thư tuyến tiền liệt phát triển chậm và có thể cần điều trị tối thiểu hoặc thậm chí không cần điều trị, các loại khác rất tích cực và có thể lây lan nhanh chóng. Ung thư tuyến tiền liệt được phát hiện sớm – khi nó vẫn còn giới hạn ở tuyến tiền liệt – có cơ hội tốt nhất để điều trị thành công.

Ung thư tuyến tiền liệt là loại ung thư phổ biến thứ hai xảy ra ở nam giới và là loại ung thư phổ biến thứ tư trên toàn thế giới. Hơn 47.500 người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt mỗi năm, tương đương với 129 người đàn ông mỗi ngày. Cứ 8 người đàn ông thì có 1 người được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt trong đời.

Tại Singapore, ung thư tuyến tiền liệt là loại ung thư phổ biến thứ ba ở nam giới và mỗi ngày, hai người đàn ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt.

Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư tuyến tiền liệt là gì?

Các triệu chứng phổ biến nhất của ung thư tuyến tiền liệt là:

  • Đi tiểu thường xuyên
  • Lưu lượng nước tiểu yếu hoặc bị gián đoạn hoặc cần phải căng thẳng để làm trống bàng quang
  • Sự thôi thúc đi tiểu thường xuyên vào ban đêm
  • Máu trong nước tiểu
  • Khởi phát mới của rối loạn cương dương
  • Đau hoặc rát khi đi tiểu, ít phổ biến hơn nhiều
  • Khó chịu hoặc đau khi ngồi, gây ra bởi tuyến tiền liệt mở rộng

Nếu ung thư đã lan ra ngoài tuyến tiền liệt, các triệu chứng có thể bao gồm:

  • Đau ở lưng, hông, đùi, vai hoặc xương khác
  • Sưng hoặc tích tụ chất lỏng ở chân hoặc bàn chân
  • Giảm cân nặng không rõ nguyên nhân
  • Mệt mỏi

Thay đổi thói quen đại tiện

Tầm soát ung thư tuyến tiền liệt

Sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt được thực hiện để tìm bằng chứng ung thư ở người lớn khỏe mạnh. Các xét nghiệm thường được sử dụng để sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt bao gồm:

  • Khám trực tràng kỹ thuật số (DRE):DRE là một xét nghiệm trong đó bác sĩ đưa một ngón tay đeo găng tay, bôi trơn vào trực tràng và cảm nhận bề mặt tuyến tiền liệt qua thành ruột xem có bất kỳ sự bất thường nào không. Kỳ thi này có thể gây khó chịu (đặc biệt là đối với những người đàn ông bị bệnh trĩ) nhưng thường không đau đớn và chỉ mất một thời gian ngắn.
  • Xét nghiệm máu PSA:Xét nghiệm này rất hữu ích để phát hiện ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn đầu, đặc biệt là ở những người có nhiều yếu tố nguy cơ, giúp một số người được điều trị cần thiết trước khi ung thư phát triển và lan rộng. Kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA) là một loại protein được tạo ra bởi các tế bào trong tuyến tiền liệt (cả tế bào bình thường và tế bào ung thư). PSA chủ yếu được tìm thấy trong tinh dịch, nhưng một lượng nhỏ cũng được tìm thấy trong máu.
  • Xét nghiệm hình ảnh tuyến tiền liệt: Sàng lọc này như MRI hoặc siêu âm xuyên trực tràng (TRUS) có thể là một lựa chọn khác để giúp bệnh nhân và bác sĩ phát hiện ung thư tuyến tiền liệt.

Sinh thiết tuyến tiền liệt: Đối với một số nam giới, sinh thiết tuyến tiền liệt có thể là lựa chọn tốt nhất, đặc biệt nếu mức PSA ban đầu cao. Sinh thiết là một thủ tục trong đó các mẫu nhỏ của tuyến tiền liệt được lấy ra và sau đó được xem xét dưới kính hiển vi. Xét nghiệm này là cách duy nhất để biết chắc chắn nếu một người đàn ông bị ung thư tuyến tiền liệt. Nếu ung thư tuyến tiền liệt được tìm thấy trên sinh thiết, xét nghiệm này cũng có thể giúp cho biết khả năng ung thư sẽ phát triển và lan rộng nhanh chóng.

Ung thư tuyến tiền liệt được chẩn đoán như thế nào

Các xét nghiệm để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt bao gồm:

  • Khám lâm sàng: Nếu bệnh nhân bị nghi ngờ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt, bác sĩ sẽ hỏi về bất kỳ triệu chứng nào mà bệnh nhân có thể gặp phải, chẳng hạn như bất kỳ vấn đề tiết niệu hoặc tình dục nào, và anh ta đã mắc chúng bao lâu. Bệnh nhân cũng có thể được hỏi về các yếu tố nguy cơ có thể xảy ra, bao gồm tiền sử gia đình.

Việc kiểm tra có thể bao gồm khám trực tràng kỹ thuật số (DRE), trong đó bác sĩ chèn một ngón tay đeo găng tay, bôi trơn vào trực tràng của bạn để cảm nhận bất kỳ vết sưng hoặc khu vực cứng nào trên tuyến tiền liệt có thể là ung thư. Nếu bệnh nhân bị ung thư, DRE đôi khi có thể giúp biết nếu nó chỉ ở một bên của tuyến tiền liệt, ở cả hai bên, hoặc nếu nó có khả năng đã lan ra ngoài tuyến tiền liệt đến các mô lân cận. Bác sĩ cũng có thể kiểm tra các khu vực khác của cơ thể bệnh nhân.

  • Xét nghiệm máu kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA): Xét nghiệm máu PSA được sử dụng chủ yếu để sàng lọc ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới không có triệu chứng. Đây cũng là một trong những xét nghiệm đầu tiên được thực hiện ở những người đàn ông có các triệu chứng có thể do ung thư tuyến tiền liệt gây ra.

PSA trong máu được đo bằng đơn vị gọi là nanogram trên mililit (ng / mL). Cơ hội bị ung thư tuyến tiền liệt tăng lên khi mức PSA tăng lên. Tuy nhiên, không có điểm giới hạn nào có thể xác nhận xem một người đàn ông có hay không bị ung thư tuyến tiền liệt. Nhiều bác sĩ sử dụng điểm cắt PSA là 4 ng / mL hoặc cao hơn khi quyết định xem một người đàn ông có thể cần xét nghiệm thêm hay không.

  • Xét nghiệm hình ảnh cho ung thư tuyến tiền liệt: Các xét nghiệm hình ảnh sử dụng tia X, từ trường, sóng âm thanh hoặc chất phóng xạ để tạo ra hình ảnh bên trong cơ thể. Một hoặc nhiều xét nghiệm hình ảnh có thể được sử dụng để tìm ung thư tuyến tiền liệt, để giúp bác sĩ nhìn thấy tuyến tiền liệt trong một số thủ tục nhất định (chẳng hạn như sinh thiết tuyến tiền liệt hoặc một số loại điều trị ung thư tuyến tiền liệt) hoặc để tìm kiếm sự lây lan của ung thư tuyến tiền liệt đến các bộ phận khác của cơ thể. Các xét nghiệm hình ảnh được sử dụng thường xuyên nhất để tìm kiếm sự lây lan ung thư tuyến tiền liệt bao gồm:
  • Siêu âm xuyên trực tràng (TRUS): Đối với xét nghiệm này, một đầu dò nhỏ có chiều rộng bằng ngón tay được bôi trơn và đặt vào trực tràng của bệnh nhân. Đầu dò phát ra sóng âm thanh đi vào tuyến tiền liệt và tạo ra tiếng vang. Đầu dò thu nhận tiếng vang và một máy tính biến chúng thành hình ảnh đen trắng của tuyến tiền liệt.
  • Chụp cộng hưởng từ (MRI): Quét MRI tạo ra hình ảnh chi tiết của các mô mềm trong cơ thể bằng sóng vô tuyến và nam châm mạnh. Quét MRI có thể cung cấp cho các bác sĩ một bức tranh rất rõ ràng về tuyến tiền liệt và các khu vực lân cận. Một vật liệu tương phản gọi là gadolinium có thể được tiêm vào tĩnh mạch trước khi quét để xem chi tiết tốt hơn.
  • Sinh thiết tuyến tiền liệt: Nếu kết quả xét nghiệm máu PSA, DRE hoặc các xét nghiệm khác cho thấy bệnh nhân có thể bị ung thư tuyến tiền liệt, rất có thể anh ta sẽ cần sinh thiết tuyến tiền liệt.

Sinh thiết là một thủ tục trong đó các mẫu nhỏ của tuyến tiền liệt được lấy ra và sau đó được xem xét bằng kính hiển vi. Sinh thiết kim lõi là phương pháp chính được sử dụng để chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt và thường được thực hiện bởi bác sĩ tiết niệu.

Trong quá trình sinh thiết, bác sĩ thường nhìn vào tuyến tiền liệt bằng xét nghiệm hình ảnh như siêu âm xuyên trực tràng (TRUS) hoặc MRI, hoặc cả hai. Bác sĩ nhanh chóng đưa một cây kim mỏng, rỗng vào tuyến tiền liệt. Điều này được thực hiện thông qua thành trực tràng (sinh thiết xuyên trực tràng ) hoặc qua da giữa bìu và hậu môn (sinh thiết qua đáy chậu ). Khi kim được rút ra, nó sẽ loại bỏ một hình trụ nhỏ (lõi) của mô tuyến tiền liệt và được lặp lại nhiều lần. Thông thường bác sĩ sẽ lấy khoảng mười hai mẫu cốt lõi từ các phần khác nhau của tuyến tiền liệt.

  • Quét xương: Nếu ung thư tuyến tiền liệt lan đến các bộ phận xa của cơ thể, nó thường đi đến xương trước. Quét xương có thể giúp hiển thị nếu ung thư đã đến xương.

Đối với xét nghiệm này, bệnh nhân được tiêm một lượng nhỏ chất phóng xạ mức độ thấp, lắng xuống các vùng xương bị tổn thương trên khắp cơ thể. Một máy ảnh đặc biệt phát hiện phóng xạ và tạo ra một hình ảnh của bộ xương của bạn. Quét xương có thể gợi ý ung thư trong xương, nhưng để chẩn đoán chính xác, các xét nghiệm khác như chụp X-quang đơn giản, CT hoặc MRI, hoặc thậm chí sinh thiết xương có thể cần thiết.

  • Chụp cắt lớp phát xạ positron (PET): Quét PET tương tự như quét xương, trong đó một chất phóng xạ nhẹ (được gọi là chất đánh dấu) được tiêm vào máu, sau đó có thể được phát hiện bằng máy ảnh đặc biệt.
  • Chụp cắt lớp vi tính (CT): Chụp CT sử dụng X-quang để tạo ra hình ảnh cắt ngang chi tiết của cơ thể bệnh nhân. Xét nghiệm này có thể giúp phát hiện ung thư tuyến tiền liệt đã lan vào các hạch bạch huyết gần đó. Nếu ung thư tuyến tiền liệt của bệnh nhân tái phát sau khi điều trị, CT scan thường có thể cho biết nếu nó đang phát triển thành các cơ quan hoặc cấu trúc khác trong khung chậu.
  • Sinh thiết hạch bạch huyết: Trong sinh thiết hạch bạch huyết, còn được gọi là bóc tách hạch bạch huyết hoặc cắt bỏ hạch bạch huyết, một hoặc nhiều hạch bạch huyết được loại bỏ để xem chúng có tế bào ung thư hay không. Điều này không được thực hiện thường xuyên đối với ung thư tuyến tiền liệt; Tuy nhiên, nó có thể được sử dụng để phát hiện nếu ung thư đã lan từ tuyến tiền liệt đến các hạch bạch huyết gần đó.

Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của ung thư tuyến tiền liệt là gì?

Các yếu tố sau đây có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt của một người đàn ông:

  • Tuổi: Nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt tăng theo tuổi tác, đặc biệt là ở nam giới trên 50 tuổi. Khoảng 60% ung thư tuyến tiền liệt được chẩn đoán ở những người từ 65 tuổi trở lên. Người lớn tuổi được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt có thể phải đối mặt với những thách thức độc đáo, đặc biệt liên quan đến điều trị ung thư.
  • Tiền sử gia đình: Ung thư tuyến tiền liệt chạy trong một gia đình, được gọi là ung thư tuyến tiền liệt gia đình, chiếm khoảng 20% của tất cả các bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Loại ung thư tuyến tiền liệt này phát triển do sự kết hợp của các gen được chia sẻ và các yếu tố môi trường hoặc lối sống được chia sẻ.

Các loại ung thư tuyến tiền liệt là gì?

Loại ung thư tuyến tiền liệt nói về loại tế bào mà ung thư bắt đầu. Biết điều này giúp bác sĩ quyết định phương pháp điều trị nào bệnh nhân sẽ cần. Họ sử dụng thông tin về loại ung thư tuyến tiền liệt của bệnh nhân cùng với:

  • Làm thế nào bất thường các tế bào ung thư nhìn dưới kính hiển vi (lớp)
  • Kích thước khối u (ung thư) và ung thư có di căn (giai đoạn)

Một cách khác mà các bác sĩ có thể mô tả ung thư là khu trú, tiến triển cục bộ hoặc tiến triển.

Có nhiều loại ung thư tuyến tiền liệt khác nhau.

  • Ung thư biểu mô tuyến Acinar: Đây là loại ung thư tuyến tiền liệt phổ biến nhất, với gần như hầu hết nam giới có loại này. Ung thư này phát triển trong các tế bào tuyến lót tuyến tiền liệt.
  • Ung thư biểu mô tuyến ống dẫn: Ung thư này bắt đầu trong các tế bào lót ống dẫn (ống) của tuyến tiền liệt. Nó có xu hướng phát triển và lây lan nhanh hơn ung thư biểu mô tuyến acinar.
  • Ung thư tế bào chuyển tiếp (hoặc niệu mô): Ung thư tế bào chuyển tiếp của tuyến tiền liệt bắt đầu trong các tế bào lót ống mang nước tiểu ra bên ngoài cơ thể (niệu đạo). Loại ung thư này thường bắt đầu trong bàng quang và lan vào tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, hiếm khi nó có thể bắt đầu ở tuyến tiền liệt và có thể lan vào lối vào bàng quang và các mô lân cận.
  • Ung thư tế bào vảy: Những bệnh ung thư này phát triển từ các tế bào phẳng bao phủ tuyến tiền liệt. Chúng có xu hướng phát triển và lây lan nhanh hơn ung thư biểu mô tuyến tiền liệt.
  • Ung thư tuyến tiền liệt tế bào nhỏ: Ung thư tuyến tiền liệt tế bào nhỏ là một loại ung thư tuyến tiền liệt hiếm gặp. Khoảng 1 trong mỗi 100 bệnh ung thư tuyến tiền liệt (1%) là ung thư tuyến tiền liệt tế bào nhỏ. Chúng cũng có thể được phân loại là một loại ung thư thần kinh nội tiết. Ung thư tuyến tiền liệt tế bào nhỏ rất khác với loại ung thư tuyến tiền liệt phổ biến nhất. Chúng phát triển nhanh hơn các loại khác. Hầu hết đàn ông bị ung thư đã lan sang các bộ phận khác của cơ thể như xương khi chẩn đoán (ung thư tiến triển).
  • Các bệnh ung thư hiếm gặp khác: Các bệnh ung thư hiếm gặp khác có thể phát triển ở tuyến tiền liệt như sarcoma. Sarcoma mô mềm là bệnh ung thư phát triển trong các mô liên kết và hỗ trợ của cơ thể. Chúng bao gồm các mô như cơ, dây thần kinh, chất béo, mô sợi và mạch máu.

Các giai đoạn của ung thư tuyến tiền liệt là gì?

Giai đoạn bệnh là cách để mô tả về vị trí của ung thư, hoặc ung thư có lan truyền đi và ảnh hưởng như thế nào đến các phần khác của cơ thể. Các xét nghiệm và chụp quét hình ảnh giúp chẩn đoán ung thư của người bệnh cho một số thông tin về:

  • Loại tế bào ung thư bắt nguồn và vị trí bắt đầu
  • Bất thường của các tế bào khi quan sát dưới kính hiển vi (mức độ)
  • Kích thước khối u (ung thư) và ung thư có di căn (giai đoạn)

Dàn dựng TNM

Một công cụ mà các bác sĩ sử dụng để mô tả giai đoạn là hệ thống TNM. Kết quả từ các xét nghiệm chẩn đoán và quét được sử dụng để trả lời những câu hỏi sau:

  • Khối u (T): Khối u nguyên phát lớn như thế nào? Nó nằm ở đâu?
  • Node (N): Khối u có lan vào các hạch bạch huyết không? Nếu có, ở đâu và bao nhiêu?
  • Di căn (M): Ung thư có lan sang các bộ phận khác của cơ thể không? Nếu có, ở đâu và bao nhiêu?

Các kết quả được tổng hợp để xác định giai đoạn ung thư của từng bệnh nhân và lên kế hoạch điều trị tốt nhất.

Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 1

Ung thư ở giai đoạn đầu này thường phát triển chậm. Khối u không thể cảm nhận được và liên quan đến một nửa của một bên tuyến tiền liệt, hoặc thậm chí ít hơn. Mức PSA trong giai đoạn này thấp và các tế bào ung thư trông giống như các tế bào khỏe mạnh.

Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 2

Giai đoạn 2: Khối u chỉ được tìm thấy ở tuyến tiền liệt. Mức PSA là trung bình hoặc thấp. Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn ll nhỏ nhưng có thể có nguy cơ phát triển và lan rộng ngày càng tăng.

Giai đoạn 2A: Khối u không thể cảm nhận được và liên quan đến một nửa của một bên tuyến tiền liệt, hoặc thậm chí ít hơn. Mức PSA là trung bình, và các tế bào ung thư được biệt hóa tốt. Giai đoạn này cũng bao gồm các khối u lớn hơn chỉ được tìm thấy ở tuyến tiền liệt.

Giai đoạn 2B: Ung thư vẫn chưa lan ra ngoài tuyến tiền liệt. Nó có thể được cảm nhận bằng khám trực tràng kỹ thuật số hoặc nhìn thấy bằng hình ảnh như siêu âm xuyên trực tràng. Mức PSA là trung bình. Các tế bào ung thư được biệt hóa vừa phải.

Giai đoạn 2C: Khối u chỉ được tìm thấy bên trong tuyến tiền liệt, và nó có thể đủ lớn để cảm nhận được trong DRE. Mức PSA là trung bình. Các tế bào ung thư có thể biệt hóa vừa phải hoặc kém.

Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 3

Giai đoạn 3: Mức PSA cao, khối u đang phát triển hoặc ung thư ở mức độ cao. Tất cả đều chỉ ra một bệnh ung thư tiến triển cục bộ có khả năng phát triển và lan rộng.

Giai đoạn 3A: Ung thư đã lan ra ngoài lớp ngoài của tuyến tiền liệt vào các mô lân cận. Nó cũng có thể đã lan đến các túi tinh. Mức PSA cao.

Giai đoạn 3B: Khối u đã phát triển bên ngoài tuyến tiền liệt và có thể đã xâm lấn các cấu trúc gần đó, chẳng hạn như bàng quang hoặc trực tràng.

Giai đoạn 3C: Các tế bào ung thư trên khắp khối u được biệt hóa kém, có nghĩa là chúng trông rất khác với các tế bào khỏe mạnh.

Ung thư tuyến tiền liệt giai đoạn 4

Giai đoạn 4: Ung thư đã lan ra ngoài tuyến tiền liệt.

Giai đoạn 4A: Ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết khu vực.

Giai đoạn 4B: Ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết xa, các bộ phận khác của cơ thể hoặc đến xương.

Thông tin thêm về Ung thư tuyến tiền liệt (do OncoCare cung cấp)

Bài viết

Video

Làm thế nào ung thư tuyến tiền liệt có thể lây lan đến xương, các triệu chứng của sự lây lan này và các con đường điều trị có thể.

Phỏng vấn được thực hiện bởi CNA938 – Hãy lắng nghe Tiến sĩ Akhil Chopra, Chuyên gia tư vấn cao cấp Bác sĩ Ung thư Nội khoa, Trung tâm Ung thư OncoCare:

https://en-gb.facebook.com/CNA938/videos/health-matters-bone-metastases-in-prostate-cancer/4317153348334409/?__so__=permalink&__rv__=related_videos