Chẩn đoán & Điều trị Ung thư Vú ở Singapore

Phương pháp Điều trị Ung thư Vú ở Singapore?

Các phương pháp điều trị Ung thư vú ở Singapore có thể bao gồm nhiều phương pháp như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, liệu pháp nội tiết, liệu pháp đích hoặc liệu pháp miễn dịch.

Điều trị Ung thư Vú: Hóa trị

Hóa trị là sử dụng các thuốc để giết các tế bào ung thư ác tính. Các thuốc hóa trị có mục tiêu đến các tổn thương tế bào u hơn là các tế bào bình thường. Gót chân Achilles của các tế bào ung thư là tế bào ung thư cần nhiều cơ chế để phát triển nhanh hơn, sửa chữa, sử dụng các con đường cung cấp dinh dưỡng nhất định, tăng lưu lượng máu đến khối u, giảm các tín hiệu chết tế bào và trốn tránh hệ miễn dịch của cơ thể. Hóa trị và các dạng liệu pháp kháng ung thư khác dựa vào thuốc và các cơ chế để tấn công và giết các tế bào ung thư.

Các phương pháp điều trị Ung thư vú ở Singapore có thể bao gồm nhiều phương pháp như phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, liệu pháp nội tiết, liệu pháp đích hoặc liệu pháp miễn dịch.

(A) Hóa trị bổ trợ (sau khi phẫu thuật không có bằng chứng của bệnh di căn đến các vị trí khác): Hóa trị bổ trợ để giảm nguy cơ rủi ro tái phát và tăng khả năng sống sót của người bệnh bằng cách tiêu diệt bất kì các tế bào ung thư mà có thể còn tồn tại nhưng không thể phát hiện được qua xét nghiệm máu hoặc hình ảnh chụp phóng xạ (xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh).

(B) Hóa trị tân bổ trợ trước phẫu thuật (được sử dụng trước khi phẫu thuật xác định): Hóa trị bổ trợ trước phẫu thuật có một số lợi ích, đặc biệt đối với các khối u lớn hơn. Hóa trị có khả năng giảm giai đoạn phát triển của ung thư, làm cho các khối u nhỏ hơn, do đó có cơ hội lựa chọn bảo toàn vú cho các bệnh nhân thích hợp. Bên cạnh đó, có thể đánh giá phản ứng của u với hóa trị (thuốc điều trị) từ đó cho phép một số điều chỉnh phương pháp điều trị đối với một số nhóm bệnh nhân ung thư vú. Các bệnh nhân ung thư vú tiến triển tại chỗ có kích thước lớn có ảnh hưởng đến da, thành ngực, hoặc với các hạch bạch huyết to cần được hóa trị trước để tối đa cơ hội loại bỏ u khi phẫu thuật. Đôi khi, một liệu trình hóa trị xa hơn có thể được đề nghị sau phẫu thuật cho một số loại ung thư vú nhất định và bác sĩ ung thư trao đổi với người bệnh về điều đó.

(C) Hóa trị cho giai đoạn di căn: Hóa trị được sử dụng như là chiến lược điều trị đầu tiên trong một số trường hợp nhất định khi ung thư vú đã di căn đến các cơ quan và các vị trí khác xa hơn (giai đoạn bệnh IV).

Điển hình, các phác đồ hóa trị có thể tiến hành trong khoảng thời gian 3 tháng đến 6 tháng, và được sử dụng theo ‘các chu kỳ’. Sử dụng thuốc với thời gian nghỉ từ 1 đến 3 tuần để cho các tế bào của người bệnh hồi phục trước khi sử dụng thuốc tiếp. Một số thuốc điều trị ung thư gây độc tế bào được truyền trong thời gian ngắn, một số thuốc có thể trong ít giờ. Gần như tất cả các điều trị thường được thực hiện ở phòng khám bệnh của chúng tôi với môi trường ngoại trú thoải mái.

Các tác dụng phụ không mong muốn của hóa trị có thể có phụ thuộc vào loại thuốc và phác đồ điều trị. Nhưng, nhìn chung các tác dụng phụ có thể được quản lý tốt. Chúng tôi có máy làm mát da đầu có thể giúp giảm nguy cơ rụng tóc nhưng chỉ có hiệu quả với một số thuốc hóa trị nhất định. Vui lòng thảo luận vấn đề đó với bác sĩ để xem có phù hợp để sử dụng nó.
Đôi khi ở ung thư giai đoạn sớm, sự cần thiết của hóa trị có thể không rõ ràng lắm. Trong các trường hợp đó, thì xét nghiệm gen trên mô khối u của người bệnh có thể giúp đánh giá nguy cơ tái phát và quyết định về hóa trị. Bác sĩ điều trị có thể giúp người bệnh hiểu về khi nào người bệnh cần xét nghiệm đó.

breast-cancer-treatment-chemotherapy.jpg

Liệu pháp Hormon (Điều trị Nội tiết)

Liệu pháp hormon kháng ung thư, được gọi là liệu pháp nội tiết, sử dụng các thuốc mục tiêu là tín hiệu estrogen (oestrogen). Các tế bào ung thư vú nhạy cảm với hormon cần tín hiệu đó để điều khiển quá trình tăng sinh, nhân lên và phát triển của chúng.

Các bệnh ung thư vú mà có con đường tín hiệu đó chủ yếu được xác định trong nhuộm màu tế bào u (hóa mô miễn dịch) như thụ thể estrogen dương tính (ER dương tính) và / hoặc thụ thể progesterone dương tính (PR dương tính). Xét nghiệm với xét nghiệm kháng thể, nhuộm màu các tế bào u. Mức độ và tỷ lệ phần trăm các tế bào được nhuộm có thể được phản ánh trong báo cáo bệnh lý học (kết quả giải phẫu bệnh).

Có nhiều nghiên cứu về nhiều người bệnh ung thư vú cho thấy có cải thiện sự sống sót ở nữ giới bị ung thư vú nhạy cảm với hormon khi được uống các thuốc nội tiết trong một khoảng thời gian. Các thuốc uống phổ biến được chỉ định là tamoxifen cho phụ nữ trước và sau mãn kinh và các chất ức chế aromatase như anastrozole (Arimidex), exemestane (Aromasin), và letrozole (Femara) cho phụ nữ sau mãn kinh. Các thuốc được dùng cho ung thư vú giai đoạn sớm và cho ung thư vú giai đoạn tiến triển muộn hơn. Có liệu pháp hormon với thuốc khác được dùng cho ung thư vú tiến triển như fulvestrant (Faslodex) dưới dạng thuốc tiêm bắp cơ. Một số liệu pháp hormon hoạt động ngăn chặn buồng trứng tạo các hormon, hoặc bằng cách phẫu thuật, xạ trị hoặc thuốc. Thông thường, các tác dụng phụ của điều trị hormon khác nhau phụ thuộc vào loại thuốc điều trị, nhưng thường dung nạp tốt và quản lý được.

Đối với điều trị ung thư vú tiến triển, sự phát triển của nhóm các thuốc mới nhất được biết đến là các chất ức chế CDK4/6, cụ thể là palbociclib (Ibrance), ribociclib (Kisqali), và abemaciclib (Verzenio)) có mục tiêu là các enzyme CDK4 và CDK6 mà có vai trò quan trọng trong phân chia tế bào. Các thuốc uống đó được dùng kết hợp với liệu pháp hormon được mô tả ở trên (các chất ức chế aromatase, tamoxifen, fulvestrant). Các thuốc có tác dụng phụ nhưng được chấp nhận và quản lý được. Bác sĩ điều trị cung cấp cho người bệnh với việc trao đổi chi tiết hơn về các tác dụng phụ đó để người bệnh có thể hiểu tốt hơn.

Liệu pháp đích (Điều trị đích)

Sự phát triển tế bào và trao đổi chất tế bào cần kết hợp các con đường tín hiệu (truyền tin). Các tế bào ung thư đôi khi có thể chiếm đoạt các tín hiệu đó (con đường truyền tin) để đạt được lợi ích từ các tế bào bình thường, từ đó tăng sinh tế bào u.

Một trong các con đường đích được thiết lập cho ung thư vú là con đường tín hiệu HER2 (được biết là erbB2). Khoảng 20% đến 25% các tế bào ung thư vú khuếch đại gen HER2 trong tế bào ung thư từ đó dư thừa quá mức protein tăng cường phát triển HER2 được biểu hiện trên tế bào ung thư. Đó giống như tăng hoạt động cơ chế phát triển tế bào. Các khối u đó được gọi là ung thư vú HER2 dương tính. Các khối u đó được cho là có hành vi ác tính hơn và có khuynh hướng lan rộng sớm hơn đến các hạch bạch huyết và các cơ quan khác, trong đó có não.

Trastuzumab (Herceptin) là kháng thể đơn dòng trực tiếp chống protein HER2, thuốc được chấp nhận vào năm 1998 để ngăn chặn con đường tín hiệu đó, thường được tiêm tĩnh mạch nhưng hiện giờ có một cách thức là được tiêm dưới da giúp quản lý tốt hơn. Khi Trastuzumab (Herceptin) được kết hợp với hóa trị thì có kết quả: tỷ lệ đáp ứng khối u cao hơn và tỷ lệ điều trị thành công cao hơn trong trường hợp giai đoạn sớm và giai đoạn tiến triển.

Sau đó các thuốc đích HER2 khác được chấp nhận, bao gồm có ado-trastuzumab (T-DM1 hoặc Kadcyla) và pertuzumab (Perjeta) được tiêm tĩnh mạch và neratinib (Nerlynx) và lapatinib (Tykerb) được uống. Các thuốc trên được dùng trong các trường hợp khác nhau và giai đoạn điều trị ung thư vú của người bệnh và bác sĩ điều trị có thể đánh giá thuốc nào là thích hợp nhất cho người bệnh.

Các tác dụng phụ của các thuốc kháng HER2 thường ít nhưng một số có thể nặng hơn. Ví dụ, trastuzumab, pertuzumab hoặc ado-trastuzumab có thể gây yếu tim (giảm chức năng của tim) hoặc suy tim và theo dõi chức năng tim mạch rất quan trọng trong quá trình điều trị bệnh.

Các chất điều trị đích khác chống các con đường khác đang được phát triển để sử dụng trong ung thư vú tiến triển. Có các chất được liệt kê phía dưới:

(1) Chất ức chế PARP (olaparib[Lynparza], talazoparib[Talzenna]): là các thuốc uống được chấp nhận sử dụng trong các bệnh ung thư vú tiến triển mà HER2 âm tính. Người bệnh có thể mang đột biến gen BRCA dòng mầm (là một đột biến di truyền trong gen BRCA giúp sửa chữa DNA).

(2) Chất ức chế PIK3CA (alpelisib[Piqray]): là thuốc uống được sử dụng kết hợp với thuốc liệu pháp hormon fulvestrant (Faslodex) trong các bệnh ung thư vú tiến triển HER2 âm tính thụ thể hormone dương tính, mang đột biến PIK3CA. Con đường PI3K/AKT/mTOR là con đường tín hiệu cho sự phát triển tế bào và trao đổi chất tế bào. Ức chế con đường đó có thể ngăn chặn ung thư. Khoảng 30-40% các bệnh ung thư vú được tìm thấy có đột biến gen PIK3CA.

(3) Chất ức chế mTOR (everolimus [Affinitor]): là thuốc uống được sử dụng kết hợp với exemestane (Aromasin) trong các bệnh ung thư vú tiến triển HER2 âm tính thụ thể hormone dương tính. Bằng cách ức chế protein mTOR, từ đó ngăn chặn hoặc giảm tăng sinh tế bào. Điều đó có thể hạn chế sự phát triển của các mạch máu mới của khối u, khối u không có chất dinh dưỡng.

Điều trị đích có các tác dụng phụ khác nhau và bác sĩ ung thư có thể quyết định liệu pháp đích nào thích hợp nhất với điều kiện tình trạng ung thư của mỗi người bệnh.
Các thuốc liệu pháp miễn dịch kiểm soát hệ thống miễn dịch của cơ thể để nhận biết và giết các tế bào ung thư. Nhóm các thuốc của liệu pháp miễn dịch khi sử dụng kết hợp với hóa trị cho thấy có hiệu quả nhất trong nhóm các bệnh ung thư vú bộ ba âm tính (các thụ thể estrogen và progesterone âm tính, HER2 âm tính).

Xạ trị

Xạ trị là sử dụng các tia X năng lượng cao (phóng xạ) để điều trị ung thư vú. Xạ trị sau phẫu thuật được đề nghị sau khi chỉ cắt bỏ khối u ở vú (phẫu thuật bảo tồn tuyến vú) hoặc trong một số trường hợp sau khi phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú mà có nguy cơ cao tái phát tại chỗ (nếu có các khối u lớn hoặc bệnh hạch bạch huyết nặng). Xạ trị điển hình được đề nghị tiến hành trong một khoảng thời gian một số tuần và sơ đồ chi tiết trường xạ trị, tránh các cơ quan chính quan trọng càng xa càng tốt.

Xạ trị là một phương thức được sử dụng trong ung thư tiến triển để điều trị trong các trường hợp như đau xương hoặc nếu có chèn ép dây thần kinh trong tủy sống. Di căn não từ ung thư vú thường cần xạ trị. Xạ trị tập trung vào các vị trí khối u được chọn, được gọi là xạ trị định vị lập thể, có thể được sử dụng trong một số tình huống để giảm tối đa các tác dụng phụ do điều trị.

proton

Ung thư Vú
Chuyên gia ở Singapore?

Phát hiện ung thư sớm là cơ sở để người bệnh hồi phục nhanh hơn. Người bệnh cần tìm kiếm các bác sĩ có chuyên môn về ung thư, đặc biệt về ung thư vú để khám bệnh và phương pháp điều trị ung thư thích hợp nhất với tình trạng của mỗi người bệnh. Các chuyên gia ung thư có khả năng chẩn đoán giai đoạn ung thư vú, khuyến nghị về phác đồ điều trị tốt nhất và các tác dụng phụ có thể có, và hỗ trợ cần thiết giúp người bệnh ở mọi giai đoạn trong quá trình người bệnh hồi phục.

Người bệnh cần chọn đúng bác sĩ có chuyên môn về ung thư vú, nhiều năm kinh nghiệm về ung thư vú, có kiến thức mới nhất và tiên tiến nhất (bao gồm các thử nghiệm lâm sàng) và có khả năng quyết định các phác đồ điều trị thích hợp nhất với tình trạng cụ thể của người bệnh.

Nhóm các bác sĩ ung thư của OncoCare có nhiều năm kinh nghiệm chuyên môn về ung thư vú. Các chuyên gia của chúng tôi được đào tạo ở các viện nghiên cứu ung thư nổi tiếng nhất trên thế giới, bao gồm Viện Ung thư Dana Farber (Trường Y Harvard) và Viện Y John Hopkins.

Chuyên gia cao cấp, Bác sĩ Ung thư

Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật (Singapore) – Thạc sĩ Y (Singapore) – Thành viên Trường Y Hoàng gia (Vương quốc Anh) – Học viện Y khoa Singapore (Ung thư) – Thạc sĩ Khoa học Y Nghiên cứu Lâm sàng (Duke, Hoa Kỳ)

Bác sĩ Wong Nan Soon có hơn 15 năm kinh nghiệm trong chẩn đoán và quản lý nhiều bệnh ung thư. Bác sĩ Soon có chuyên môn về ung thư vú và ung thư đường tiêu hóa, như ung thư đại tràng, ung thư trực tràng, ung thư hậu môn, ung thư mật, ung thư tuyến tụy, ung thư gan, u mô đệm đường tiêu hóa (GIST), và u thần kinh nội tiết. Bên cạnh đó, thì bác sĩ Soon có kinh nghiệm điều trị người bệnh bị ung thư phổi, ung thư thận, ung thư tử cung, ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng.

Năm 1994, Bác sĩ Wong Nan Soon tốt nghiệp Y khoa, Đại học Quốc gia Singapore và có bằng Thạc sĩ Y (Nội khoa) và là thành viên của Trường Y Hoàng gia Vương quốc Anh. Năm 2003, Bác sĩ Soon được đào tạo chuyên sâu hơn về ung thư nói chung.

Sau khi tốt nghiệp, Bác sĩ Soon có một năm theo học lâm sàng chuyên ngành về ung thư vú ở Canada, ở đó bác sĩ Soon được đào tạo bởi Giáo sư Kathleen Pritchard, là Bác sĩ Chuyên khoa Ung thư vú nổi tiếng thế giới.

Hồ sơ Y của Bác sĩ Wong Nan Soon

  • Giải thưởng Novartis cho Người nghiên cứu trẻ về Ung thư Canada năm 2005
  • Giải thưởng Best Poster Award trong Hội nghị thường niên của Hiệp Hội Ung thư Canada năm 2005
  • Chủ tịch, Ủy ban Quỹ Điều trị Y tế, Hiệp hội Ung thư Singapore 2007
  • Giảng viên lâm sàng, Trường Y Yong Loo Lin, Đại học Quốc gia Singapore 2006-2011
  • Phó Giáo sư Khoa Khoa học Lâm sàng, Đại học Quốc gia Singapore-Duke, 2011-2013
  • Chuyên gia cao cấp được mời, Bệnh viện Phụ nữ và Trẻ em KK, Singapore 2010-2011
  • Chuyên gia cao cấp, Khoa Ung thư, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore 2009-2011
  • Chuyên gia được mời, Khoa Ung thư, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore 2012-2014
  • Thành viên Ủy ban Đào tạo Chuyên gia (chuyên ngành Ung thư), Bộ Y tế từ năm 2009 đến 2012
  • Giảng viên được mời Trường Khoa học Y Nanyang
  • Giám đốc quản lý Giáo dục Bệnh nhân và Cộng đồng, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore 2008-2011
  • Phó Giám đốc quản lý Phòng Tiếp cận Cộng đồng và Từ thiện, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore
  • Phó Chủ tịch, Hiệp hội Ung thư Singapore 2011-2012
  • Thành viên Hội đồng Quản trị, Chi hội Bác sĩ Ung thư Y tế của Singapore 2009-2012
  • Thư ký Danh dự, Chi hội Bác sĩ Ung thư Y tế, Trường Y, Học viện Y khoa Singapore 2007-2008
  • Thành viên, Ủy ban Chỉ đạo Thử nghiệm Lâm sàng, Trung tâm Ung thư Quốc gia Singapore, 2008-2011
  • Thành viên Hiệp hội Ung thư Singapore
  • Thành viên Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ

Chuyên gia cao cấp, Bác sĩ Ung thư

Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật (Singapore) – Thạc sĩ Y khoa (Singapore) – Thành viên Trường Y Hoàng gia (Vương quốc Anh) – Học viện Y khoa Singapore (Ung thư)

Bác sĩ Tan Sing Huang là bác sĩ, chuyên gia ung thư cao cấp có hơn 16 năm kinh nghiệm trong quản lý nhiều bệnh ung thư khác nhau. Trước khi tham gia vào Trung tâm Ung thư OncoCare thì bác sĩ Huang là chuyên gia cao cấp của Khoa Ung thư – Huyết học, Viện Ung thư Đại học Quốc gia Singapore (NCIS). Bác sĩ Huang là Trợ lý Giáo sư ở Trường Y Yong Loo Lin, Đại học Quốc gia Singapore.

Trong suốt thời gian ở NCIS thì bác sĩ Huang có chăm sóc cho nhiều bệnh nhân bị ung thư, bao gồm các bệnh ung thư: ung thư vú, ung thư phụ khoa, ung thư phổi và ung thư đường tiêu hóa (đại tràng, trực tràng, tuyến tụy, gan, dạ dày) nhưng tập trung chuyên môn chính của bác sĩ Huang là các bệnh ung thư ở nữ giới. Từ các kết quả nghiên cứu lâm sàng của bác sĩ Huang ở NUH thì bác sĩ được trao Giải thưởng Sunny Side-Up và Sunny Side-Up WOW dựa trên ý kiến của nhiều bệnh nhân.

Bác sĩ Huang điều hành Đào tạo Nội trú cao cấp ở NCIS với vai trò Giám đốc Chương trình từ năm 2012 đến năm 2016, Đồng Chủ tịch Ủy ban Năng lực Lâm sàng của NCIS và là Thành viên Hội đồng Tuyển chọn Thực tập sinh Y khoa Ung thư Quốc gia. Đồng thời, Bác sĩ Huang tham gia với tư cách người đánh giá cho tốt nghiệp đại học cho sinh viên y khoa. Vì các đóng góp của Bác sĩ Huang cho giáo dục đào tạo, Bác sĩ được trao Giải thưởng Giảng dạy xuất sắc NUH năm 2014.

Bác sĩ Huang là Phó Chủ tịch của Hiệp hội Ung thư Singapore từ năm 2013 đến năm 2018.

Bác sĩ Huang là Thành viên Ủy ban hoạt động tích cực và trong thời gian dài và Phó Chủ tịch Hội đồng Đánh giá Đạo đức theo lĩnh vực đặc trưng về Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia từ năm 2020, đánh giá các phương thức thử nghiệm lâm sàng về các bệnh ung thư cho các bệnh viện.

Bác sĩ Huang là người điều tra chính về một số nghiên cứu của các trung tâm, nghiên cứu các loại thuốc điều trị mới cho các bệnh ung thư vú HER2 dương tính và đồng thời là người điều tra các thử nghiệm lâm sàng của một số trung tâm về các bệnh ung thư phổi, ung thư đại trực tràng và ung thư vú.

Bác sĩ Huang tập trung vào nghiên cứu chuyển giao công nghệ, bác sĩ có thời gian trong Nhóm Nghiên cứu RUNX ở Singapore theo Giải thưởng Học bổng Nghiên cứu Y học Totalisator Nghiên cứu Y học Quốc gia-Singapore (NMRC). Sau đó, Bác sĩ Huang đến Trung tâm Ung thư Toàn diện Sidney Kimmel, Johns Hopkins ở Baltimore năm 2006-2007, ở đó Bác sĩ Huang tiến hành nghiên cứu di truyền học gen biểu sinh (di truyền ngoại gen) và thu được nhiều kinh nghiệm lâm sàng từ các nghiên cứu với Phòng Ung thư Vú của Viện Y học Johns Hopkins.

Bác sĩ Huang được trao Giải thưởng Chương trình Tài trợ Nghiên cứu-Điều tra-Khoa học (RISE) từ năm 2008 đến 2010, và Giải thưởng Protected Time Award cho nhà nghiên cứu trẻ năm 2011. Bác sĩ được Giải thưởng Merit Award ở Hội nghị Quốc tế lần thứ 10 của Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Châu Á ở Seoul về phân tích biến đổi đột biến gen sinh ung thư trước và sau hóa trị đối với các bệnh ung thư vú. Từ năm 2012 đến 2014, Bác sĩ Huang được trao Giải thưởng Chương trình Hỗ trợ Lương Nghiên cứu Lâm sàng (CISSP) Hội đồng Nghiên cứu Y Quốc gia. Bác sĩ Huang có được một số khoản tài trợ độc lập từ năm 2008 nghiên cứu các mô hình methyl hóa, về phân tích đột biến gen sinh ung thư thông lượng cao và các hiệu ứng của hóa trị đối với các bệnh nhân bị ung thư.

Bác sĩ Huang có đóng góp vào các Chương sách về hóa trị điều trị ung thư vú di căn trong các sách quốc tế như về các bệnh của vú. Bên cạnh đó, bác sĩ viết các nghiên cứu khoa học được công bố ở các tạp chí trong nước và quốc tế trong đó có Tạp chí Nghiên cứu Ung thư Lâm sàng và Biên niên sử về Ung thư.

Bác sĩ Huang là khách mời thuyết trình và nói chuyện ở trong nước và nước ngoài, có Trung Quốc, Việt Nam và Brunei. Bác sĩ chủ trì các Hội nghị và khách mời ở các Hội nghị trong nước và nước ngoài. Bác sĩ Huang nói được tiếng Anh, tiếng Trung (Mandarin) và Hokkien và biết một ít tiếng Malay và Bahasa. Bác sĩ Huang chăm sóc cho nhiều bệnh nhân từ nhiều vùng khác nhau, bao gồm Indonesia, Việt Nam, Myanmar, Trung Quốc, Bangladesh, Sri Lanka, Ấn Độ và nước Nga.

Hồ sơ Y của Bác sĩ Tan Sing Huang

  • Chuyên gia cao cấp ở Viện Ung thư Đại học Quốc gia (NCIS) trước khi tham gia vào Trung tâm Ung thư OncoCare
  • Trợ lý Giáo sư, Trường Y Yong Loo Lin, Đại học Quốc gia Singapore, trước khi vào Trung tâm Ung thư OncoCare
  • Giám đốc Chương trình Đào tạo Nội trú cao cấp, Viện Ung thư Đại học Quốc gia 2012-2016
  • Phó Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Đặc trưng vùng về Chăm sóc Sức khỏe Quốc gia B1 từ 2020 và thành viên Hội đồng từ 2011
  • Phó Chủ tịch Hiệp hội Ung thư Singapore 2013-2018
  • Giải thưởng Merit Award thuyết trình ở Hội nghị Quốc tế lần thứ 10 của Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Châu Á (Seoul, Hàn Quốc), 2012
  • Giải thưởng Chương trình Tài trợ Nghiên cứu-Điều tra-Khoa học (RISE) 2008
  • Giải thưởng Học bổng Nghiên cứu Y Totalisator Singapore – Nghiên cứu Y học Quốc gia 2003-2004
  • Giải thưởng Sunny Side-up và Sunny Side-up WOW trong chăm sóc bệnh nhân về lâm sàng, Bệnh viện Đại học Quốc gia
  • Thành viên Ủy ban Hội nghị Chuyên đề về Vú 2016 Singapore
    Chủ tịch Hội nghị Best of ASCO, Singapore 2015
  • Giải thưởng Giảng dạy Xuất sắc NUH 2014
  • Thành viên Mạng lưới Ung thư Singapore (SCaN) Nhóm Hướng dẫn Ung thư Vú 2014 và chỉ đạo các vấn đề liên quan đến sử dụng bisphosphonate bổ trợ
  • Đào tạo Sau đại học ở Viện Y Johns Hopkins, Baltimore 2006-2007
    Thành viên Hiệp hội Ung thư Singapore
  • Thành viên của Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO)

Chuyên gia cao cấp, Bác sĩ Ung thư

Cử nhân Y khoa và Cử nhân Phẫu thuật (Singapore) – Thạc sĩ Y (Singapore) – Thành viên Trường Y Hoàng gia (Vương quốc Anh) – Học viện Y khoa Singapore (Ung thư)

Bác sĩ Peter Ang tốt nghiệp Đại học Quốc gia Singapore năm 1991 và sau đó học Thạc sĩ Y ở Vương quốc Anh năm 1997. Năm 2000, Bác sĩ Ang có được Học bổng Chương trình Phát triển Nguồn lao động của Bộ Y tế (HMDP) để theo Chương trình đào tạo ở Viện Ung thư Dana Farber, Bác sĩ Ang học và nghiên cứu về ung thư nói chung và tập trung vào ung thư vú và gen di truyền trong bệnh lý ung thư.

Bác sĩ Ang được công nhận về khả năng quản lý và chuyên môn cao là bác sĩ, chuyên gia về ung thư vú, và chuyên gia hàng đầu về ung thư của Nhóm Nghiên cứu về Ung thư vú (2002) ở Trung tâm Ung thư Quốc gia, Singapore và Cụm Y tế Singhealth. Bác sĩ Ang có nhiều thông tin khoa học về ung thư và cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt cho nhiều người bệnh bị các loại ung thư khác nhau, bao gồm ung thư phổi, ung thư dạ dày, ung thư đại trực tràng, u lympho, ung thư thận, ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư tử cung, và ung thư cổ tử cung. Bác sĩ Ang hoạt động tích cực trong nghiên cứu ung thư chuyển giao công nghệ và nghiên cứu lâm sàng trong nhiều năm về ung thư vú, ung thư đại tràng, ung thư phổi và các bệnh ung thư khác.

Hồ sơ Y của Bác sĩ Peter Ang

  • Tốt nghiệp Đại học Quốc gia Singapore năm 1991.
  • Thạc sĩ Y (Nội khoa) và thành viên của Trường Y Hoàng gia (Vương quốc Anh) năm 1997.
  • Giải thưởng Học bổng Chương trình Phát triển Nguồn lao động (HMDP) của Bộ Y tế được đào tạo cao hơn ở Viện Ung thư Dana Farber (liên kết đào tạo của Trường Y Harvard), Boston Hoa Kỳ 2000-2001.
  • Bác sĩ Ang là bác sĩ, chuyên gia về ung thư vú hàng đầu của Nhóm Nghiên cứu Ung thư vú (2002) của Trung tâm Ung thư Quốc gia và Cụm Y tế Singhealth và tham gia vào Dự án Quản lý Sức khỏe Ung thư vú (2003). Bác sĩ Ang là người tiên phong trong Chương trình Giáo dục Ung thư Cộng đồng với Phát triển Dịch vụ Ung thư Singhealth (2004).

Dấu hiệu và Triệu chứng
Ung thư Vú?

Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở nữ giới ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Trong khoảng 40 năm thì tỷ lệ ung thư vú ở Singapore tăng hơn 2 lần, từ 25 đến 65 người bị ung thư vú trên mỗi 100.000 phụ nữ. Các bệnh ung thư vú chiếm khoảng 1/3 tổng số trường hợp ung thư ở nữ giới ở địa phương, với tỷ lệ bắt đầu tăng dần sau tuổi 40. Nhưng có ung thư vú khởi phát sớm ở nữ giới trong độ tuổi 20 và 30 và số lượng các trường hợp được báo cáo đang tăng trong nhóm độ tuổi đó. Đáng chú ý, nam giới có thể bị ung thư vú nhưng ít hơn nhiều.

Dấu hiệu phổ biến nhất của ung thư vú là cục u thường không đau, nhưng có thể khó chịu hoặc đau. Các dấu hiệu khác có hiện tượng đầu vú đột nhiên thụt vào (co rút núm vú), tiết dịch núm vú, các hạch bạch huyết sưng tấy ở vùng nách (thậm chí có thể xuất hiện trước khi có cảm giác khối u vú), sưng phù tất cả hoặc một phần của vú, đỏ da trên vú có thể giống viêm và/hoặc lún lõm da mà nhìn giống lớp vỏ cam.

Quan trọng là ung thư vú cần được phát hiện sớm vì khi phát hiện ở giai đoạn sớm thì có khả năng chữa khỏi bệnh cao hơn và giảm tối đa quá trình điều trị. Khi phát hiện đang ở giai đoạn 0, có thể không cần hóa trị.

Sàng lọc Ung thư Vú

Sàng lọc (tầm soát) ung thư vú là vấn đề quan trọng vì phát hiện ung thư vú ở giai đoạn sớm hơn thì khi đó các phương pháp điều trị có thể ít phức tạp hơn và có kết quả điều trị tốt hơn. Chụp X-quang tuyến vú là cách chính để sàng lọc ung thư vú. Đó là một xét nghiệm đơn giản sử dụng các tia X để có được các hình ảnh về tuyến vú ở các góc độ khác nhau và yêu cầu ép vú (nén vú giữa các mái chèo) để giảm độ dày. Liều tia xạ rất thấp do đó rủi ro cho sức khỏe ít. Phát hiện bất thường trên các hình ảnh chụp X-quang không tự động có nghĩa là một người bị ung thư và nhiều người không có lý do để lo lắng. Tần suất sàng lọc: Người từ 50 đến 69 tuổi – Chụp X-quang tuyến vú định kì 2 năm 1 lần. Người từ 40 đến 49 tuổi thì cần trao đổi với bác sĩ ung thư về các lợi ích, các hạn chế và các nguy cơ tiềm ẩn. Nếu quyết định xét nghiệm thì đi khám, xét nghiệm định kì hàng năm. Cho dù tự kiểm tra vú không còn trong các khuyến nghị kiểm tra sàng lọc chính thức, nhưng cần xem xét hình ảnh bình thường và cảm giác ở vú để có khả năng nhận biết kịp thời bất kì thay đổi nào. Có thể tiến hành chụp cộng hưởng từ (MRI) tuyến vú để bổ trợ cho chụp X-quang tuyến vú để sàng lọc phụ nữ mà có nguy cơ cao như người mang đột biến gen (ví dụ: đột biến gen BRCA) vì các đột biến gen tăng rủi ro bị ung thư vú trong suốt cuộc đời một người.

Các Loại Ung thư Vú?

Ung thư vú điển hình thường xuất hiện khi các tế bào bất thường trong tuyến vú bắt đầu phát triển không thể kiểm soát được tạo thành khối u. Thường xuyên nhất là phát sinh từ các ống dẫn sữa của vú (các bệnh ung thư ống dẫn sữa) hoặc ít phổ biến hơn là từ các tuyến tạo sữa (các bệnh ung thư tiểu thùy). Có các loại ung thư vú khác như là các u diệp thể vú ác tính, hoặc các u bắt nguồn từ các loại mô khác ở trong vú như là u lympho (mô lympho) hoặc sarcoma (sarcoma mô liên kết, sarcoma mạch máu). Bệnh Paget ở vú là một dạng hiếm của ung thư vú phát sinh trong và xung quanh núm vú. Phân loại nhóm ung thư vú dựa vào biểu hiện của mô khi sinh thiết, gồm có các bệnh ung thư ống dẫn sữa xâm lấn (chiếm khoảng 80%), với tỷ lệ các bệnh ung thư tiểu thùy xâm lấn thì thấp hơn nhiều (khoảng 10%). Các bệnh ung thư vú có thể xuất hiện rất sớm như các u ung thư biểu mô thể ống vú tại chỗ (DCIS). DCIS là ung thư vú ở giai đoạn 0 và không có khả năng lan rộng đến các vị trí cách xa vú. Vì thế mà DCIS có tiên lượng rất tốt.

Nguyên nhân và Yếu tố Nguy cơ
Ung thư Vú?

Có rất nhiều yếu tố rủi ro, nguy cơ gây bệnh ung thư vú nhưng nhiều người bị ung thư vú dù không có bất kì yếu tố rủi ro nào trong số đó. Không có yếu tố rủi ro đặc thù mà trực tiếp gây ung thư vú và thường có thể là sự kết hợp của một số yếu tố hoặc không có yếu tố nào. Một số yếu tố tăng nguy cơ bị ung thư vú:

Tuổi - rủi ro ung thư vú tăng khi già đi (tăng dần theo tuổi)
Giới tính - phổ biến hơn ở nữ giới cao gấp 100 lần so với nam giới
Mức độ Estrogen - mức estrogen nội sinh cao hơn có quan hệ với tăng nguy cơ bị ung thư vú, đặc biệt là ung thư vú thụ thể hormone dương tính.
Mô vú dày đặc - người có mô vú dày đặc được nhìn thấy qua chụp X-quang vú có nguy cơ bị ung thư vú cao hơn
Tuổi khi bắt đầu có kinh nguyệt sớm hoặc tuổi mãn kinh muộn
Phụ nữ không sinh con
Phụ nữ sinh con đầu tiên khi cao tuổi
Người có lịch sử (tiền sử) bị ung thư vú
Người có lịch sử gia đình bị ung thư vú trong mối quan hệ gia đình cấp đầu tiên (mẹ, chị em gái, bố) đặc biệt nếu bị chẩn đoán ung thư vú khi trẻ tuổi.
Người mang đột biến gen di truyền có khả năng bị ung thư vú
Người thường xuyên uống rượu
Tiếp xúc với các chất phóng xạ ở ngực (phơi nhiễm với tia xạ thành ngực) khi điều trị các bệnh ung thư khác như u lympho Hodgkin hoặc do các tình huống không lường trước được đặc biệt khi ở độ tuổi trẻ mà có thể tăng nguy cơ ung thư vú

Các thay đổi trong lối sống có thể giúp giảm hoặc loại bỏ một số yếu tố rủi ro:

Cho con bú - là một phản ứng bảo vệ được thấy trong một số nghiên cứu.
Hoạt động thể thao thường xuyên để duy trì cân nặng khỏe mạnh có thể giúp bảo vệ vú.
Hạn chế hoặc không uống rượu

Không có bằng chứng mạnh về mối quan hệ giữa chế độ ăn uống và ung thư vú nhưng duy trì chế độ ăn uống cân bằng tốt bao gồm các loại rau, cá và ít thịt đỏ có lợi ích cho sức khỏe nói chung và hạnh phúc nói chung.

Giai đoạn của Ung thư Vú?

Hiểu biết về các giai đoạn của ung thư vú có vai trò quan trọng trong chiến lược điều trị ung thư vú và tiên lượng bệnh. Phân loại giai đoạn ung thư vú dựa vào kích thước khối u, lan đến các hạch bạch huyết vùng và các cơ quan xa hơn. Và giai đoạn ung thư vú được xác định dựa trên trạng thái thụ thể progesterone và estrogen, tình trạng HER2 và độ mô học ung thư vú (độ biệt hóa, mức độ các tế bào ung thư khác biệt khi so với các tế bào bình thường). Giai đoạn 0 là DCIS không xâm nhập, giai đoạn I-III là ung thư vú xâm nhập giới hạn ở vú và/hoặc các hạch bạch huyết gần đó (trong vùng), và giai đoạn IV là ung thư vú lan rộng đến các cơ quan khác và các vị trí xa hơn.